Chuyến đi thăm chùa Trấn Quốc ở Hà Nội hôm ấy khiến tôi cảm thấy buồn. Vẫn biết không phải chỉ có ở chùa Trấn Quốc mà tất cả các chùa, đền, đình, phủ…ở Việt Nam đều được viết bằng chữ Hán hoặc có thể là chữ Nôm…thứ ngôn ngữ mà giống như phần lớn người Việt, tôi không biết.
Hôm đó, đúng lúc tôi đến chùa thì có một đoàn khách Trung Quốc cũng vào tham quan. Tôi không hiểu hướng dẫn viên giới thiệu cho khách Trung Quốc những gì, nhưng tôi thấy tất cả những chữ có trong chùa, từ tên chùa, các câu đối đến bia đá hướng dẫn viên đều đọc cho cả đoàn khách cùng hiểu. Họ là người Trung Quốc mà họ có thể đọc và hiểu hết tất cả những gì nói về ngôi chùa của Việt Nam, còn tôi là một người Việt chính gốc lại chẳng thể đọc và hiểu biết gì, ngoài ít thông tin giới thiệu ở tấm bảng của chùa!!!
Ngày hôm đó, tôi thật sự cảm thấy buồn và nhận thấy rằng người Việt thế hệ con cháu như tôi trở đi sẽ không hiểu được những gì đã ghi ở phần lớn các địa điểm tôn giáo, tín ngưỡng trên đất Việt, trong khi người ngoài lại có thể.
Về lịch sử và tiếng tăm của ngôi chùa nổi tiếng ở Hà Nội này có lẽ mọi người đều đã biết, nên tôi không kể đến nữa. Theo tôi có lẽ ngày trước khi xây chùa người ta lên chùa bằng thuyền, mới có thể bước vào sân chùa và cửa chính của gian Tiền đường.
Tôi không may mắn khi đến thăm vào lúc đang sửa chữa sân chùa, xung quanh cây Bồ đề đã được thủ tướng Ấn Độ Razendia Prasat tặng từ năm 1959, khi ông tới thăm Hà Nội.
Tượng Phật trên bàn thờ của gian Tiền đường rất đẹp, nhưng vì khá tối nên tôi không thể chụp được tấm hình nào đẹp cả. Nhưng đúng là khi bước vào bên trong gian điện, khách vãn cảnh chùa đều cảm thấy vẻ đẹp của các bức tượng Phật, nhất là trong ánh sáng đỏ lại tạo thêm vẻ huyền bí.
Bên trái bàn thờ Tam Bảo là bàn thờ Quan Vũ, một bên là Quan Bình cầm hộp ấn, bên kia là Chu Thương cầm thanh long đao. Đây cũng là nét khác thường ở chùa Trấn Quốc, vì rất ít chùa ở Hà Nội nói riêng và miền Bắc nói chung có bàn thờ Quan Công.
Gian bên phải thờ Đức Ông, ngài trưởng giả Tu Đạt Đa người đã có công xây tịnh xá cúng dàng đức Phật đến thuyết pháp. Do công đức lúc sinh thời làm nhiều việc phúc và ủng hộ Phật pháp nên ngài được làm Long Thần hộ pháp tại các chùa Bắc Tông.
Phía sâu trong gian Tiền đường hai bên Tam Bảo có hai bàn thờ, thật sự tôi không biết là thờ ai. Tượng ông Thiện, ông Ác đứng hai bên như các chùa khác.
Đây là tấm bia đá mà khách Trung Quốc đã được hướng dẫn đọc to cho nghe, còn tôi thì chịu chết, chẳng biết trong này ghi gì…
Giờ cửa Tam quan của chùa được mở trên con đường nhỏ nối từ đường Cổ Ngư, nên khách tham quan sẽ vào nhà thờ Tổ trước.
Nhà thờ Tổ nằm vuông góc với Tiền Đường, có năm gian, trong đó ba gian đặt bàn thờ Phật Tổ và hai gian đặt bàn thờ Mẫu.
Bộ tượng Phật Tổ ở nhà thờ Tổ chùa Trấn Quốc là bộ tượng quý.
Bàn thờ Mẫu tại nhà thờ Phật Tổ: Ban thờ Tam tòa Thánh Mẫu.
Ban thờ Chúa Sơn Trang.
Tòa nhà hai mái có gác chuông bên trên, phía dưới là gian tiếp đón khách.
Khu bảo tháp, trong đó có bảo tháp 11 tầng mới được xây dựng trong dịp lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, còn lại phần lớn là các tháp cũ.
Và một tấm bia nữa, tôi cũng không hiểu gì, ngoài năm 1939, chắc là thời gian xây ngôi đền bảo vệ bên ngoài.
Theo giới thiệu thì chùa còn giữ được 14 tấm bia cổ, ghi lại nhiều tư liệu quý và mô tả đầy đủ những lần tu tạo chùa, nhưng chỉ để cho các nhà nghiên cứu và người Trung Quốc đọc hiểu mà thôi. Giá như có bản dịch ra tiếng Việt, thì con cháu người Việt sau này vẫn có thể tìm hiểu và biết về lịch sử của cha ông mình.
Chùa Trấn Quốc là một trong những điểm tham quan mà hầu như khách du lịch nào đến Hà Nội cũng đặt chân tới.