Từ Kuala Lumpur, Malaysia bạn có thể mua vé xe tốc hành đi Malacca, một thành phố cổ của Malaysia với giá 23RM/ người/ 2 chiều. Xe chạy khoảng 2 giờ, sạch sẽ và khởi hành đúng giờ.
Bến xe Malacca Sentral nằm rất gần khu phố cổ. Từ bến xe vào phố cổ chỉ khoảng 15 phút đi xe bus công cộng, nhưng bạn phải hết sức cẩn thận tính thời gian nếu định sử dụng xe bus quay trở lại bến Malacca Sentral, vì chiều quay ra xe bus sẽ chạy vòng quanh Malacca và mất khoảng 1 giờ. Giá vé xe bus 2RM. Nếu ít thời gian, bạn nên đi taxi cho chủ động.
Malacca có nhiều cái để xem, như khu vực quảng trường Hà Lan, bao gồm các tòa nhà thời thuộc địa, bảo tàng, nhà thờ Kito giáo, pháo đài Famosa, bảo tàng quốc gia, nhà hát Âm thanh – Ánh sáng…Khu phố cổ với những dãy nhà có kiến trúc ảnh hưởng Trung Hoa, khu phố của người Ấn hay nhà thờ Hồi Giáo…
Ở Malacca chủ yếu là đi bộ tham quan phố cổ và thưởng thức các món ăn và đồ uống các dân tộc khác nhau trong quán nhỏ bên đường. Nhưng nếu bạn có thời gian dài hơn, bạn có thể đi thuyền dọc sông Melaca, ra bãi biển hoặc nghỉ tại các khu resort tiện nghi ở đây. Có đủ điểm tham quan để bạn ở tới 3-4 ngày.
Khu phố mới và nơi dân cư sinh sống cũng rất hiện đại với những siêu thị lớn…nhưng đó không phải là lý do bạn đến Malacca.
Tôi sẽ kể một chút về lịch sử về mảnh đất này.
Trước khi có Sultan (vua) đầu tiên, Malacca là một làng chài mà người dân địa phương được gọi là Orang Laut. Vị vua cuối cùng của Temasek (ngày nay là Singapore) đã chạy trốn khỏi cuộc tấn công năm 1377 và đến mảnh đất này năm 1400. Ở đây ông nhận thấy sẽ là một cảng biển tốt và có vị trí chiến lược thuận lợi. Trong một lần đi săn, ông ngồi nghỉ dưới gốc cây gần một con sông, ông trông thấy những con chó của mình đang dồn bắt một con nai. Để tự vệ, con nai đã đẩy con chó xuống sông. Ấn tượng về sự can đảm của con nai đã khiến ông coi đó là một điềm báo thuận lợi cho kẻ yếu vượt qua kẻ mạnh mẽ, cũng như tình huống của ông lúc bấy giờ, do vậy ông quyết định xây dựng một đế chế trên chính địa điểm đó và đặt tên là ‘Malacca’ theo tên của cái cây nơi ông ngồi dưới đó.
Cùng với người dân địa phương ông đã thành lập Malacca như một cảng quốc tế cho các tàu đi qua và thành lập các cơ sở thương mại, kho bãi lưu hàng. Đầu thế kỷ XV, Trung Quốc đã tích cực tìm cách phát triển thương mại đường thủy. Nhà Minh đã cử Đô đốc Zheng He đến Malacca để hỗ trợ nâng cao vị thế của cảng biển này và giúp Vua Malacca chống quân Xiêm. Để tăng cường quan hệ, công chúa Hang Li Po, con gái của Hoàng đế Minh đã đến Malacca, cùng với 500 người tham dự, kết hôn với cua Sultan Manshur Shah, người trị vì từ năm 1456 đến năm 1477.
Năm 1511, Alfonso de Albuquerque (Bồ Đào Nha) khởi hành từ Goa đến Malacca với khoảng 1.200 người và 17-18 chiến tàu. Họ đã chiếm được thành phố và tha cho những cư dân Hindu, Trung Quốc và Miến Điện, nhưng đã thảm sát hoặc bán nô lệ những người Hồi giáo. Malacca trở thành thuộc địa của Bồ Đào Nha, nhưng người Bồ lại không kiểm soát được cảng thương mại châu Á.
Người Hà Lan đã phát động nhiều cuộc tấn công vào thuộc địa Bồ Đào Nha trong đó có Malacca vào năm 1606, dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Hà Lan Cornelis Matelief de Jonge, người đã vây hãm thành phố với sự giúp đỡ của các đồng minh Johor. Người Hà Lan cai trị Malacca từ 1641-1798 nhưng họ không quan tâm đến việc phát triển nó như một trung tâm thương mại, mặc dù họ vẫn xây dựng nhiều tòa nhà ở đây gọi là Stadthuys có màu trắng, sơn màu đỏ, với ý nghĩa là sự tồn tại của Hà Lan ở châu Á.
Malacca được nhượng lại cho người Anh trong Hiệp ước Anh-Hà Lan năm 1824 cho đến năm 1942, Malacca dưới sự cai trị của người Anh, đầu tiên là Công ty Đông Ấn của Anh và sau đó là một thuộc địa Anh.
Công đấu tranh giản phóng thuộc địa thành công, Malacca và Penang trở thành một phần của Liên minh Malayan vào năm 1946, sau này trở thành Liên bang Malaya vào năm 1948.
Những năm tháng thay đổi các thời kỳ thuộc địa và sự giao lưu với nhiều dân tộc đã tạo cho Malacca một sắc màu văn hóa đa dạng rất đặc biệt. Bạn có thể thấy được các dấu ấn thời gian ở Malacca.
Pháo đài Famosa nằm trên ngọn đồi được người Bồ Đào Nha xây dựng năm 1511, nhưng nó bị thiệt hại nghiêm trọng trong cuộc chiến với Hà Lan. Người Anh đã lên kế hoạch phá hủy nó, nhưng do sự can thiệp của ngài Stamford Raffles vào năm 1808 đã cứu được những gì còn lại của Famosa ngày nay.
Nhà thờ St. Paul được thuyền trưởng người Bồ Đào Nha tên là Duarte Coelho xây dựng vào năm 1521 được gọi là “Our Lady of the Hill” sau đó người Hà Lan thay đổi là “Thánh Paul”..
Khu phố St. John do người Hà Lan xây dựng trong những năm cuối thế kỷ XVIII, với khẩu pháo đài hướng ra biển, nhà thờ St. Peter (xây dựng năm 1710) và nhà thờ Christ Church được xây dựng vào năm 1753. Tòa nhà Stadthuys được xây dựng vào năm 1650 là trụ sở chính thức của Thống đốc và Phó Thống đốc Hà Lan, có kiến trúc tượng trưng cho nghệ thuật thiết kế Hà Lan. Bây giờ là “Bảo tàng Lịch sử và Dân tộc học”.
Đền Cheng Hoon Teng: Ngôi chùa cổ nhất Trung Quốc ở Malaysia được thuyền trưởng Trung Quốc Li Wei King xây dựng năm 1673.
Thánh Francis Xavier mất năm 1553 và xác được bảo quản trong nghĩa trang đến năm 1849 nhà thờ St. Francis Xavier Church được xây dựng Linh mục Pháp Farve để tưởng niệm ông như “Người Truyền giáo đầu tiên ở phương Đông”.