Họ sẽ thuộc về đâu?

 

Chương I

Bố tôi là thầy giáo dạy toán tại trường cấp II trên huyện, với tiền lương chỉ đủ cho cuộc sống tập thể tại trường và một ít quà, thường là mấy cái bánh mỳ hay túi kẹo vừng, kẹo lạc, đôi khi là vài cuốn sách, ông mang về cho các con vào chiều thứ bảy, nên việc nuôi ba anh em chúng tôi ăn học đều do một mình mẹ tôi cáng đáng. Từ sáng đến tối, mẹ tôi “tay năm, tay mười” không lúc nào ngơi. Xong công việc ngoài đồng, mẹ tôi lại tranh thủ trồng rau trong vườn nhà, nuôi thêm đàn gà lấy trứng hay ra chợ bán thúng ổi trong vườn để lấy tiền mua thêm thức ăn. Như tất cả bọn trẻ ở nông thôn, chúng tôi lao động giúp đỡ bố mẹ từ nhỏ, bé thì làm việc nhà, lớn hơn thì làm các công việc đồng áng, nhưng mẹ tôi vẫn đầu tắt mặt tối quanh năm. Chúng tôi lớn lên trong cuộc sống bình dị của làng quê, dưới bóng mát của những khóm tre xanh, với những trò chơi chỉ là mảnh sành, khúc gỗ. Chúng tôi thuộc lòng từng cây ăn quả trong làng, biết rõ lúc nào và ở đâu có nhiều cua, ốc và có thể đi câu ếch bằng mấy bông hoa mướp đến nửa đêm…Nhưng chúng tôi lại rất ngu ngơ về văn hóa, sách truyện hay phim ảnh. Mỗi khi đội chiếu phim của tỉnh về, từ lúc cái phông trắng được căng lên bọn trẻ trong làng đã háo hức mang ghế con ra bãi cỏ rộng bên cạnh sân đình ngồi chờ, đến lúc tiếng máy quay bắt đầu xè xè thì bụng chúng đã đói mềm, bắt đầu sôi lên sùng sục. Nhiều đứa chỉ tò mò quay lại xem cái máy chiếu, hay chạy ra phía sau phông, thắc mắc không biết tại sao luồng ánh sáng phát ra từ cái máy lại khiến mấy người trên cái phông trắng kia đi lại, cười nói như thật được, chúng chẳng mấy quan tâm đến nội dung cuốn phim. Đôi ba lần trong năm, chúng tôi lẽo đẽo đi bộ theo các anh chị xem biểu diễn văn nghệ mãi tận trên huyện. Vượt qua cả quãng đường xa, đến nơi không còn sức để chen qua đám đông, nên hầu như chẳng bao giờ chúng tôi có cơ hội nhìn thấy gì diễn ra trên sân khấu, chỉ đứng ngoài nghe tiếng loa vọng ra. Nghe nói mấy cô văn công xinh lắm, nên chúng tôi cố chờ đến hết buổi, chạy ra phía sau sân khấu để mong có cơ hội được nhìn thấy họ. Lễ hội trong làng chủ yếu là việc cúng bái của người lớn ngoài đình và miếu Thành hoàng, bọn trẻ con chúng tôi bị cấm “lượn lờ” ra đó, sốt ruột ngồi nhà chờ lộc, thường là nắm xôi, cái oản, miếng giò hay miếng thịt gà luộc do ông bà và bố mẹ mang về. Đôi khi trong làng cũng tổ chức chọi gà, hoặc thi đánh cờ, nhưng bọn trẻ chỉ đứng chầu vòng ngoài, chẳng hiểu gì cả, cứ thấy các cụ khen hay mà chẳng nhìn thấy cái “hay” đó ở đâu.

Hai năm học trung cấp cơ khí trên tỉnh, tôi đã ít nhiều được mở rộng hiểu biết. Tôi đọc được ít truyện trong thư viện nhà trường hay thuê ở quán sách cụ Thông trong ngách chợ và tham gia hầu hết các buổi liên hoan, giao lưu văn nghệ thanh niên của trường. Với cây ghi ta gỗ và lòng yêu âm nhạc, mấy thanh niên chúng tôi đã có thể làm nên một tối “hát cho nhau nghe” hả hê với mấy bài, hát đi hát lại, vì vốn âm nhạc chỉ có vậy. Hai ba lần trong năm, trường đại học Văn hóa tỉnh tổ chức chiếu phim, nhưng vì hội trường chật, nên mỗi lần xem phim “ghé” xong đôi chân mỏi nhừ tê dại, vì không những phải đứng suốt buổi chiếu mà còn bị nhiều người xô hoặc đè lên. Nhiều khi tiếng thuyết minh phim bị át bởi những lời bình phẩm và cả lời phàn nàn hay mắng mỏ nhau của đám khán giả hạng ba đang mải đấu tranh để sinh tồn nhiều hơn là thưởng thức nghệ thuật.

Tôi chưa đi đâu xa ra khỏi tỉnh và ngay cả trong tỉnh cũng chỉ biết vài đường phố chính. Học xong, tôi về làm việc ở xưởng sửa chữa máy cày ở huyện cách nhà không xa, hàng ngày đạp xe đi làm. Các em gái tôi lần lượt ra trường và nhận được việc làm. Cả hai cô đều theo nghề bố, một cô về dạy ở trường cấp 1 gần làng, còn một cô nuôi dạy trẻ. Cuộc sống thanh niên của tôi khá đơn giản, với dầu mỡ và tiếng nổ của máy móc từ sáng sớm đến tối mịt. Thỉnh thoảng lũ con trai trong làng cũng rủ nhau ra đầu làng sau bữa tối, trêu chọc mấy cô gái hoặc đi xem ghé vô tuyến của quán nước trong làng, mỗi khi có truyền hình một trận đá bóng hay bộ phim nào đó.

Là con trai độc nhất trong nhà, nên khoảng 15 tuổi tôi đã phải làm quen với những việc cúng lễ ngày giỗ, Tết trong gia đình và tại nhà thờ gia tộc. Tất cả đồ thờ cúng đều do mẹ tôi chuẩn bị, nghi lễ thì do các bác hướng dẫn, nhưng khấn vái chủ yếu vẫn do mẹ tôi lầm rầm to nhỏ. Chưa bao giờ tôi tò mò muốn biết mẹ tôi đã khấn gì hay thắc mắc tại sao mọi người lại làm những thủ tục, nghi lễ này, có lẽ đơn giản vì thấy mọi nhà đều làm thế.

Sau khi chúng tôi đã có công ăn việc làm, mẹ tôi đỡ vất vả hơn nhiều và kinh tế gia đình tôi cũng dần khá lên đôi chút, bố mẹ tôi bắt đầu lo tiết kiệm tiền để dựng vợ, gả chồng cho con cái, sự kiện rất tốn kém đối với các gia đình nông thôn.

Một buổi chiều cuối tuần, bố tôi mới về, đang ngồi hỏi chuyện mấy anh em chúng tôi thì ông bác họ trên huyện đến chơi. Bác gọi cả mẹ tôi lên nhà và sai hai đứa em gái tôi xuống bếp đun nước, rồi thì thầm báo tin:

  • Nghe nói xã có chỉ tiêu đi lao động xuất khẩu ở Đức, về tiêu chuẩn thì cậu cả nhà chú thuộc diện được xét tuyển rồi, nhưng chú cũng phải chạy lên huyện lo thêm cho chắc chắn.

Nghe vậy bố mẹ tôi mừng quýnh, nhưng rồi bố tôi lại lo lắng nói với bác:

  • Thằng cả mà được đi thì tốt quá, nhưng em nghe người ta bảo khó lắm bác ạ. Ai cũng biết đi lao động như thế giúp kinh tế cho cả gia đình, nên mọi người đều chạy khiếp lắm. Nhà em không quen biết gì sợ không được.
  • Khó thì phải quyết tâm và tìm ra cách chứ. Mình phải bàn bạc, gỡ rối dần, chú đừng quá lo lắng – Bác tôi nói.
  • Bác nói đúng đấy, nhà mình phải quyết bằng được để thằng cả đi nước ngoài lao động, vừa để mở mặt mở mày với làng xóm, vừa giúp gia đình đổi đời – Mẹ tôi nói – Ông cứ nghe bác nói hết đã, tôi sẽ đi nhờ vả mọi người thêm.

Sau đó bác còn ngồi to nhỏ với bố mẹ tôi khá lâu, tôi ngồi gần đấy nhưng cũng chỉ nghe câu được câu chăng. Đủ tiêu chuẩn đi lao động mới chỉ lọt qua vòng đầu, còn rất nhiều vòng sơ khảo, trung khảo gì đấy nữa, với những chi phí không tên, tốn đến hai con lợn cả tạ… Tuy khó khăn vất vả nhưng bố mẹ tôi đã vượt qua được hết, với sự hỗ trợ của ông bác và những người quen nữa. Cuối cùng tôi đã có tên trong danh sách ra đi tìm cơ hội đổi đời cho mình và gia đình, biến ước mơ thành hiện vật sờ thấy được.

Tôi và những người của tỉnh được đi Đức đợt này tham dự khóa học tiếng Đức 6 tháng. Lần đầu tiên được gặp người nước ngoài, một thầy giáo người Đức, chúng tôi cứ trố mắt ra nhìn, lạ lắm. Ông ấy là một người to cao, tóc màu vàng nhạt, tôi không biết đó là màu tóc bình thường hay đã bạc, đôi mắt xanh như nền trời trong ngày nắng gắt, khuôn mặt nhân hậu lúc nào cũng vui vẻ và nhễ nhải mồ hôi. Ông ấy giới thiệu về nước Đức, văn hóa, luật pháp…thông qua phiên dịch, nên chúng tôi chỉ ngồi nghe chứ không có dịp giao tiếp, ngoài câu chào chung của cả lớp. Chưa bao giờ học ngoại ngữ nên với những thanh niên nông thôn chúng tôi 6 tháng mới chỉ kịp nhớ bảng chữ cái và mấy câu cám ơn, xin lỗi.

Là ông giáo, cả đời chỉ biết những điều trong sách vở, nên từ việc chạy giấy tờ cho tôi đi, đến quyết định chuẩn bị cho tôi những gì, cũng đều một tay mẹ tôi lo cả. Khi thấy mẹ tôi chạy vạy để mua sắm ít hàng hóa, bố tôi lo lắng hỏi:

  • Bà làm gì mà vay mượn, mua sắm nhiều thế?
  • Đây là cơ hội chỉ có một lần, mình phải tận dụng tối đa có thể, tôi đã dồn tất cả tiền và đi vay mượn thêm một ít để mua hàng cho thằng cả nó mang đi. – Mẹ tôi giải thích – Nghe nói một vốn bốn năm lời, mình làm cả đời cũng không có được. Chỉ cần nó gửi được hàng về, mình bán đi sẽ trang trải ngay khoản vay nợ, ông không phải lo.
  • Thằng cả nó đi lao động sẽ có tiền để hỗ trợ cho gia đình, có phải đi sang đó để buôn bán đâu mà bà phải đi vay tiền làm vốn. – Bố tôi phản đối.
  • Tôi cũng có bảo nó phải đi buôn đâu, chỉ cần mang chỗ hàng này sang bán lấy tiền, mua mấy cái xe đạp gửi về là có lãi rồi. – Mẹ tôi tranh luận
  • Mình mới chỉ nghe người ta nói vậy, chứ chắc gì đã dễ như thế. Thằng cả mới sang, lạ nước lạ cái, làm sao mà bán với mua được. – Bố tôi vẫn lo lắng nói.
  • Đã có nhiều người đi trước rồi, nó có phải làm người đầu tiên đâu, ông không phải lo, cứ để tôi và thằng cả chịu trách nhiệm việc này. – Mẹ tôi quả quyết.

Thế là tôi ra đi, mang theo cả cơ nghiệp của gia đình và một gánh nặng trách nhiệm. Hành trình ra đến sân bay Gia Lâm như thế nào, chuyến bay dài, quá cảnh qua mấy nước để đến được đông Berlin ra sao…tôi hầu như không có tâm chí nào để ý, chỉ nhẩm đi nhẩm lại danh sách những gì mình mang đi và lời dặn dò, hướng dẫn của mấy người đi trước, để làm sao có thể bán được hàng với giá cao nhất, cách thức mua hàng hóa và những loại hàng gì có giá trị nên gửi về nhà.

Chương II

Chúng tôi đến Berlin vào ngày cuối tháng 8, tuy mới cuối hè và trời vẫn có nắng, nhưng khá lạnh đối với người mình. Buổi tối nhiệt độ xuống dưới 20 độ. Đội chúng tôi có một cán bộ quản lý và một phiên dịch tiếng Đức và sáu chục công nhân, tất cả đều là nam giới được đưa đến thành phố Potsdam chỉ cách Berlin mấy chục cây số, để làm việc trong một nhà máy cơ khí. Dù gánh nặng trách nhiệm luôn ám ảnh, nhưng lần đầu tiên được đi trên con đường rộng thênh thang, với cơ man các loại ôtô lớn bé, hai bên là những khối nhà kiến trúc tuyệt đẹp, vẫn đem đến cho tôi một cảm xúc choáng ngợp, vui sướng.

Nơi chúng tôi ở là khu nhà 8 tầng sơn màu xanh da trời với những ô cửa kính có treo rèm trắng. Hàng cây trồng xung quanh nhà lá bắt đầu ngả vàng. Có nhiều khu nhà tập thể khác của người Đức được quét sơn màu vàng hoặc đỏ trông rất vui mắt, nằm xen lẫn các hàng cây, vườn hoa nhỏ và một sân chơi dành cho trẻ em khá rộng. Cửa hàng thực phẩm, nơi có thể mua bánh mỳ, sữa, các loại thực phẩm đóng hộp và đông lạnh khác cho cuộc sống hàng ngày nằm cách chỗ chúng tôi mấy dãy nhà. Vừa đến được một ngày, tôi đã háo hức đi dạo quanh để xem xét, nhưng cũng nhanh chóng cảm thấy ngại ngùng vì mình quá ngu ngơ và lạc lõng.

Tôi được xếp vào sống chung phòng với ba người khác. Anh Nam là bộ đội phục viên, quê ở Thái Bình, có vóc người khá cao to, khuôn mặt vuông nghiêm nghị, nước da rám nắng, nên trông chững chạc hơn hẳn chúng tôi, mặc dù chỉ hơn tôi 3 tuổi. An cũng bé nhỏ như tôi, khuôn mặt tròn hơi con gái, tính hiền lành coa phần hơi rụt rè, cùng tuổi lại là bạn đã quen khi học tiếng ở nhà vì cùng quê Hà Nam với tôi, nên chúng tôi đã trở thành bạn thân. Người thứ tư là anh Thành hơn tôi một tuổi, quê Phú Thọ là người tầm thước, ưa nhìn và rất nhanh nhẹn. Dù hoàn cảnh gia đình khác nhau, nhưng chúng tôi đều là thanh niên nông thôn, không hiểu biết nhiều, giờ xa nhà đến lao động ở xứ người, đều lơ ngơ như nhau, nên chúng tôi dễ hòa hợp. Căn phòng của bốn người khoảng gần ba chục mét vuông, chỉ đủ chỗ cho bốn chiếc giường đơn, một tủ treo quần áo chung, một cái bàn nhỏ, toàn bộ đồ dùng cá nhân chủ yếu cất trong vali hoặc các thùng carton đặt dưới gầm giường. Một cửa sổ kính hai lớp khá lớn, nhìn xuống hàng cây phía dưới. Chúng tôi không bao giờ kéo rèm, nên ánh sáng ban ngày qua cửa sổ đủ để chúng tôi không cần dùng đèn ngay cả mùa đông. Một phần cửa sổ đóng cố định, một phần chúng tôi thường mở để luồng không khí tươi mát từ bên ngoài ùa vào phòng mỗi buổi sáng. Bốn phòng dùng chung một khu bếp đun bằng ga và nhà vệ sinh. So với ở quê lúc bấy giờ thì khu ký túc xá chúng tôi ở là điều mơ ước.

Việc đầu tiên chúng tôi phải đi mua sắm quần áo rét, vì mùa đông đang tới gần mà không ai trong chúng tôi có đủ đồ ấm. Nhà máy thanh toán cho chúng tôi tiền mua đồ đông, nhưng chọn được đồ mặc vừa không phải dễ, bởi chiều cao và cân nặng của người Việt chỉ thuộc cỡ trẻ em ở đây. Thường thì tất cả mọi người sẽ mua cùng một loại, cả áo, quần, khăn mũ… vì không có sự lựa chọn nào khả dĩ hơn. Mỗi sáng đi làm, ra khỏi ký túc xá cùng một giờ, đám người bé nhỏ co ro vì lạnh trong những chiếc áo cùng màu, cùng kiểu, như một đàn chim cánh cụt… khiến chúng tôi trở nên nổi bật, nhưng không phải hấp dẫn vạn vật xung quanh mà ngược lại là dấu hiệu để người Đức chọn hướng đi khác. Ở nhà chúng tôi chỉ quen đi dép nhựa, dép tông, thậm trí có người ở quê còn thường xuyên đi chân đất, giờ đi giầy thấy vướng víu, khó chịu. Lựa chọn giầy là điều vượt quá khả năng đối với chúng tôi. Lúc thử giầy, cho chân vào thấy vừa là mua, nhưng khi đi rồi thì chân đau, giầy thì chật chội, “bỏ thì thương, vương thì tội”, tiếc tiền nhưng mỗi lần đi lại khóc dở mếu dở. Phải mất cả năm chúng tôi mới quen dần cái văn minh tối thiểu đó.

Cả bốn anh em người nào cũng mang được ít nhiều hàng từ Việt Nam sang và có nhu cầu bán, nên chỉ sau vài ngày, theo sự dẫn dắt của một người đồng hương, mấy người Đức đã kín đáo tìm đến phòng của chúng tôi. Với mấy câu tiếng Việt bồi, chẳng cần hiểu, chúng tôi cũng biết mục đích của họ. Có vẻ như mọi chuyện đưa về tận Việt Nam không phải chỉ là tin đồn, từ việc xem xét hàng hóa, nâng lên đặt xuống, trả giá và nhận hàng đều giống như những gì tôi đã được căn dặn từ trước. Chỉ bằng ngôn ngữ chân tay, chúng tôi đã thực hiện xong thương vụ đầu tiên một cách thuận lợi. Tôi thấy nhẹ cả người. Một số người trong đoàn không vội bán hàng như chúng tôi, vì họ biết có thể bán được giá cao hơn, nếu bán cho người mua để dùng, còn đây là những người mua buôn. Nhưng với tôi lần đầu đi buôn thì gặt hái được thế này đã là thành công lớn rồi. Chúng tôi mất cả buổi tối ngồi kiểm tra lại các tờ tiền, loại tiền vừa mới được làm quen chưa lâu, rồi đếm và xếp sau đó phải tìm chỗ cất giữ tiền cẩn thận, trước khi mua được hàng hóa gửi về cho gia đình.

Sau một tuần học tập, được nghe giới thiệu và hướng dẫn khá tỷ mỉ về công việc, chúng tôi bắt đầu làm việc cùng với công nhân Đức trong nhà máy sửa chữa máy xúc, máy ủi, tại các bộ phận sơn, hàn, nguội với những công việc khá vất vả và đòi hỏi tính cẩn thận cao. Sau 3 tháng thử việc, chúng tôi có thể lựa chọn hành thức trả lương theo sản phẩm hoặc công nhật. Quản đốc phân xưởng là một người Đức trung niên tên là Martin, ít nói nhưng thân thiện, luôn kiên nhẫn chỉ bảo khi chúng tôi làm sai và không bao giờ nặng lời nhắc nhở khi có vi phạm về giờ giấc. Mọi giao tiếp của chúng tôi với ông ấy đều thông qua phiên dịch, vì chúng tôi chỉ biết vài câu chào hỏi và mấy từ kỹ thuật. Sau một tháng chúng tôi đã nắm chắc các tiêu chuẩn và nội quy của nhà máy nên hầu như không bao giờ bị phạt lương vì những sai phạm, tuy thỉnh thoảng vẫn bị nhắc nhở những lỗi nhỏ, chủ yếu là thói quen nông nghiệp đã ăn sâu trong tiềm thức.

Sau ba tháng thử việc, cả bốn anh em chúng tôi đều chọn nhận lương công nhật, còn lương khoán thì chỉ có vài người trong đoàn lựa chọn thôi. Chúng tôi làm việc 6 ngày trong tuần, nghỉ chủ nhật và vì sống gần nhà máy, chỉ qua 2 bến tàu điện, nên thường chúng tôi rời nhà lúc 7 giờ rưỡi sáng và trở về đến nhà 7 rưỡi chiều, nếu làm thêm giờ. Chúng tôi cũng được học tiếng Đức, nhưng phần vì ỷ lại phiên dịch, phần vì thiếu tự tin, sợ sai, dấu dốt, lại thêm tính lười biếng nên khả năng giao tiếp tiếng Đức của chúng tôi không tiến được bao nhiêu sau nhiều tháng sống và làm việc tại nước Đức. Chúng tôi rất ngại nói chuyện với người dân địa phương vì vốn từ có hạn, mỗi lần cần nói câu gì thì vốn từ ít ỏi biết đi đâu mất hết, sau câu chào là chịu không biết nói tiếp cái gì. Cuộc sống của chúng tôi rất đơn điệu, chỉ gói gọn giữa bến tàu điện, dây chuyền trong nhà máy, bếp nấu ăn và giường ngủ…Cuối tuần chúng tôi phân công nhau đi cửa hàng mua thực phẩm cho cả tuần và cả bốn người, chỉ bao gồm việc lựa chọn thực phẩm, xếp hàng, trả tiền theo hóa đơn và một câu “cám ơn” bằng tiếng Đức. Nhờ tài giao tiếp của anh Thành với mấy thỏi son Thái làm quà cho các cô bán hàng, chúng tôi đã quen được với mấy cửa hàng, thông qua giao tiếp đơn giản để mua một số vật dụng thông thường, vì phần lớn các mặt hàng có giá trị ở Việt Nam thì phải mua lại của những người Việt chuyên “đánh hàng” với giá thường là gấp đôi. Chúng tôi cũng muốn đi chợ nông trang để mua thực phẩm tươi sống, nhưng lại ngại lúc trả tiền. Mấy bà bán hàng thường nói một tràng dài, chẳng thể nào “bắt” được từ gì giúp chúng tôi biết về số tiền phải trả cả, nên chúng tôi luôn phải đưa tờ tiền mệnh giá to để họ trả lại, thật tình họ có trả lại thiếu cũng không biết.

Sau vài tháng, tôi gần như đã hoàn thành được nhiệm vụ gia đình giao phó, tuy không được “một vốn bốn năm lời” như mọi người vẫn thì thầm to nhỏ ở nhà, vì đa phần tôi phải mua lại hàng của người khác, nhưng cũng đủ để bố mẹ trả nợ số tiền đã vay, dôi ra một ít để sửa sang lại nhà cửa, còn lại để bố mẹ tôi dắt lưng. Tôi cũng gửi cho hai em gái ít đồ dùng gia đình, coi như của hồi môn trước khi đi lấy chồng.

Mùa đông những ngày tuyết rơi dầy, quần áo của chúng tôi có thể giữ đủ ấm cho cơ thể, nhưng đôi giầy không bảo vệ được chân, chỉ đi một lúc là các ngón chân đã tê cứng, chưa kể đến những lúc tuyết đóng băng, trơn trượt, thỉnh thoảng lại bị vồ ếch trên đường. Khi thời tiết ấm hơn, đôi lần chúng tôi cũng rủ nhau ra ngoài trong ngày nghỉ, nhưng do thiếu tự tin và thói quen quàng tay, dắt díu nhau đi trên đường khiến chúng tôi hay bị người địa phương để ý. Chỉ một vài cử chỉ, nét mặt hay câu nói không hiểu cũng khiến chúng tôi đã ngại lại càng ngại hơn. Tôi cũng có một vài người đồng hương làm việc ở Potsdam và các thành phố khác, nhưng rất ít khi đến chơi chỗ họ, nếu có đi thì cũng để tranh thủ mua hàng hóa cần thiết.

Tuy cách Berlin không xa nhưng trong suốt hai năm chúng tôi đi tham quan Berlin duy nhất một lần, do nhà máy tổ chức. Chúng tôi có đi xem phim một hai lần, nhưng vì tiếng Đức kém không hiểu nên chán, còn ca nhạc thì chưa có dịp. Không chỉ có chúng tôi, mà công nhân Việt Nam ở đây không bao giờ đi uống bia ở bar hay vào quán café trong thành phố, vì túi tiền và cả sự thiếu hiểu biết về lối sống, văn hóa ở đây, nên chúng tôi chỉ mua bia về nhà uống với đồ nhắm tự chế. Rào cản ngôn ngữ khiến chúng tôi chỉ sinh hoạt trong cộng đồng nhỏ hẹp, chạy qua lại giữa các phòng, đánh cờ, chơi bài, cuối tuần tụ tập uống bia. Cũng có người tìm đến các khu công nhân nữ làm quen, kết bạn, nhưng bốn anh em chúng tôi chưa thấy hào hứng với việc đó, nên ngoài một hai lần thành phố tổ chức giao lưu giữa các nhà máy ra, chúng tôi ít khi đi chơi các khu công nhân khác. Lúc mới đến chúng tôi còn thích đi cửa hàng mua đồ dùng gia đình gửi về nhà, nhưng sau này chúng tôi phải tập trung tiền để mua những món đồ to tiền qua tay người khác, nên ít đi cửa hàng.

Khoảng nửa năm sau khi sang, anh Nam đã thuyết phục chúng tôi kiếm thêm tiền từ việc may quần bò “nhái”, mặc dù không ai trong chúng tôi biết đến cây kim, sợi chỉ khi ở nhà. Việc học may ban đầu cũng giúp chúng tôi tự may được quần áo cho mình, vì ngoài cửa hàng toàn cỡ to, khó kiếm được đồ mặc vừa, sau đó chúng tôi may quần bò bằng thứ vải thô của Đức, tuy chưa được xếp vào loại hàng “nhái” chuẩn, nhưng cũng được những công nhân trong nhà máy chấp nhận. Căn phòng chật hẹp của chúng tôi trở thành xưởng may, chất đầy vải và thành phẩm, cùng ba máy khâu làm việc chăm chỉ tất cả các tối trong tuần.

Những chiếc quần bò với giá khá “mềm” được bán cho gần hết những người công nhân làm cùng hoặc người quen của họ, sau đó chúng tôi nâng cấp đặt mua vải bò nhập khẩu và các phụ kiện “xịn” hơn, từ khóa quần, đinh ốc, đến nhãn mác… Phụ thuộc vào khả năng của từng người, quy trình từ mua vải và phụ kiện, may quần đến bán hàng đã hình thành sự phân công tương đối rõ. Anh Nam có nhiều mối quan hệ bên ngoài nên chủ yếu lo phần đầu vào, mua vật tư, tôi và An thuộc loại chăm chỉ và kiên nhẫn nên là lực lượng lao động chân tay chính, còn anh Thành, người có năng khiếu bẩn sinh, vừa nhanh nhẹn lại vừa nói tiếng Đức tốt nhất thì đảm nhiệm việc bán hàng. Khi lượng hàng được sản xuất ra hàng đêm của chúng tôi đã khá lớn và những đồng nghiệp tại nhà máy mà chúng tôi có thể tiếp cận được không thể mua được quần bò “nhái” với số tiền bằng nửa tháng lương, chúng tôi phải tìm kiếm người bỏ mối hoặc mua buôn hàng của chúng tôi để bán lại cho các sạp hàng hoặc người bán hàng rong trên các chuyến tàu.

Do thu nhập của nhà máy không cao và công việc cũng vất vả, nên một số người trong đoàn đã bỏ ra ngoài đi buôn bán, nhưng chúng tôi thì vẫn cặm cụi làm việc mười mấy giờ một ngày, vừa trong nhà máy, vừa ở nhà, không có thời gian ra ngoài, đi chơi hay giao lưu bạn bè, không đọc báo hay nghe ngóng tin tức trên vô tuyến. Thời gian trôi nhanh, hai năm ở đây, đừng nói đến các nước châu Âu khác, ngay cả đất nước và con người Đức chúng tôi cũng chẳng biết thêm được gì nhiều hơn lúc ở nhà.

Khi bức tường Berlin sụp đổ, chúng tôi rất lơ ngơ vì thiếu thông tin, chẳng hiểu sự việc diễn ra như thế nào và chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Rồi nhà máy nơi tôi làm thông báo sẽ đóng cửa và chúng tôi sẽ phải nghỉ việc dù chưa hết hợp đồng và không được bố trí việc làm khác. Chúng tôi sẽ được cấp vé máy bay về nước và 3.000 DM cho mỗi người, mọi người có thể đăng ký thời gian về.

Bốn anh em chúng tôi bàn chuyện cả ngày. Mỗi người một hoàn cảnh, anh Nam đã từng có thời gian trong quân ngũ, có lẽ vẫn ít nhiều còn tư duy kỷ luật, nên thấy nhà máy lo cho vé về và số tiền bồi thường cũng không nhỏ, anh quyết định về:

  • Theo anh thì nên về, ở lại mình không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Hai năm rồi nhưng mình vẫn chưa hề có chỗ đứng trong xã hội, không biết gì xung quanh thì xoay sở thế nào, chưa kể đến những bất khả kháng như chính sách đối với người nước ngoài thay đổi, chi phí y tế lúc ốm đau… Về nhà, với số tiền tích lũy được và nghề may mặc cũng có thể giúp mình tạo dựng một cơ nghiệp nhỏ, đỡ phải đau đầu.
  • Thật sự em cũng hoang mang, ở lại rất mạo hiểm và đầy rủi ro, thậm trí có thể sẽ mất tất cả, nhưng không hiểu sao em chưa sẵn sàng về nước bây giờ. – Tôi tâm sự. – Em muốn có thêm thời gian để cân nhắc.

Ngoài việc phải tự trả tiền nhà, mà lại chưa biết sẽ làm gì để có thu nhập, vì việc bán quần áo cũng bị ngưng trệ, điều chúng tôi lo lắng nhất là không biết chính quyền mới có cho phép chúng tôi ở lại hay không. Được biết là nếu có công ăn việc làm và chỗ ở, chúng tôi có thể đến đăng ký xin định cư ngắn hạn với chính quyền, nhưng làm sao để có việc làm thì chúng tôi chưa biết.

Bận rộn gói ghém đồ đạc, chúng tôi không nghĩ gì đến năm mới đã rất gần. Tất cả hàng hóa, đồ dùng đã mua được, chúng tôi gửi chung vào thùng hàng của anh Nam mang về nước trước, chỉ giữ lại những thứ tối cần thiết vì chưa biết chỗ ăn ở sẽ thế nào. Anh Nam về nước trước ngày Tết Nguyên đán, khi mùa đông đã gần kết thúc. Đó cũng là những ngày cuối cùng chúng tôi còn được ở cùng nhau trong căn phòng miễn phí.

Rồi đến anh Thành có đồng hương đã ra ngoài làm ăn từ trước ở thành phố khác rủ buôn bán cùng, nên đã quyết định đi Rostock, một thành phố phía bắc nước Đức. Trong khi tôi và An còn chưa biết nên làm gì, thì những người trong nhà máy truyền nhau về thiên đường Tây Berlin không chỉ đối với người Việt mà cả với cả người Đông Đức. Trước đây, khi bức tường ngăn cách đông – tây Berlin, hơn trăm người đã bỏ mạng khi trèo qua bức tường sang tây Berlin, giờ bức tường đã bị phá vỡ, mọi người có thể sang tây Berlin tìm kiếm cơ hội mới, thử vận may…

An vốn hiền lành, cậu ấy không thích mạo hiểm và tôi cũng vậy, nên chúng tôi quyết định ở lại và việc đầu tiên là chúng tôi phải đi tìm chỗ ở mới. Qua người quen mách, chúng tôi tìm đến một khu nhà cao tầng khá cũ, nằm rìa thành phố, có nhiều người Việt đang sống ở đây. Chúng tôi không dám chọn căn hộ có bếp và nhà tắm riêng với hai phòng ngủ, vì giá khá cao, gần nửa tháng lương khi làm ở nhà máy, nên chỉ thuê phòng ở cho hai người, còn các tiện nghi như bếp, nhà tắm vẫn dùng chung với mấy phòng khác. Tôi đã tích lũy được ít tiền, chưa kịp mua hàng gửi về nên đổi sang Mác Đức mới theo tỷ giá 1:1, cũng có được một tài sản kha khá, nhưng chúng tôi vẫn phải xoay xở, tiếp tục kiếm tiền, không thể ngồi gặm nhấm số tài sản quý giá đó được. Chúng tôi khám phá ra rằng có nhiều cách kiếm tiền, hợp pháp có, mà bất hợp pháp cũng có, như buôn thuốc lá lậu chẳng hạn, nhưng chúng tôi chọn cách kiếm tiền tuy vất vả và không được nhiều lợi nhuận, nhưng an toàn. Qua tìm hiểu, chúng tôi biết có thể bán hàng vào các phiên chợ cuối tuần ở vùng ngoại ô, nên trong tuần, chúng tôi vẫn tiếp tục may quần bò để cuối tuần đem đi bán. Cũng may trời đã ấm dần lên, nên việc bán hàng ngoài trời không quá khó khăn như giữa mùa đông giá tuyết. Vạn sự khởi đầu nan, nhiều ngày chúng tôi đứng chồn chân mỏi gối, bữa trưa chỉ ăn qua loa mẩu bánh mỳ mang từ nhà, mà đến tận chiều tối vẫn chẳng bán được gì. Mặc dù chúng tôi đã giảm giá bán quần xuống đến mức thấp nhất có thể, chỉ lấy công làm lãi, nhưng vì thu nhập ở vùng ngoại ô không cao nên rất ít người hỏi đến. Để có thể tồn tại được, chúng tôi phải tìm kiếm các mặt hàng phù hợp với nhu cầu và mức sống của địa phương, nên phải dần chuyển sang mua hàng hóa để bán cùng với quần bò, sau đó không may quần bò nữa.

Từ ngày nghỉ việc ở nhà máy, tôi đã nhận được mấy lá thư của bố mẹ lo lắng vì không biết cuộc sống bấp bênh khi không còn đoàn đội, nhà máy nữa và mong muốn tôi trở về. Trong mấy bức thư bố tôi còn nhắc đi nhắc lại:

  • Từ trước tới giờ con chỉ làm việc ở nhà máy, có tổ chức nhà nước bảo đảm, con có biết gì việc buôn bán đâu, bây giờ con phải chuyển sang kiếm sống bằng việc buôn bán thì bố mẹ thật sự không yên tâm. Con về nhà chắc chắn sẽ kiếm được việc làm, nghề cơ khí bây giờ rất cần. Về nhà đi con, cả nhà lúc nào cũng chờ con về. Nhà mình bây giờ cũng đã có của ăn, của để, con không phải lo lắng gì thêm cho bố mẹ nữa. Hơn nữa, con là con trai duy nhất của gia đình mình, các em gái con sắp đi lấy chồng, chúng phải có trách nhiệm với gia đình nhà chồng, bố mẹ về già chỉ trông cậy vào con thôi. Còn cả chuyện thời cúng tổ tiên và chăm sóc phần mộ gia tộc, họ hàng nữa.

Có thư bố tôi còn viết:

  • Mẹ con dạo này bắt đầu mệt mỏi, những khi trái nắng trở giời ốm đau, các em con không thể qua thăm thường xuyên được, giá có con dâu thì mẹ con cũng có người đỡ đần thêm. Mấy đứa cùng tuổi con ở làng đều đã có con hết rồi đấy…

Trách nhiệm nặng nề khiến tôi cảm thấy quá sức. Tôi hoang mang không biết phải làm gì, nhiều lúc cũng muốn buông tay, nhưng thật sự tôi vẫn chưa sẵn sàng về nước. Để bố mẹ ở nhà đỡ lo, tôi không nhắc đến những bất ổn hay khó khăn ở đây nữa, thư viết về chỉ kể cho bố mẹ nghe những chuyện đầy lạc quan như đã tìm được chỗ ở mới an toàn và tiện lợi, công việc làm ăn cùng với các anh em bạn bè cũ đang tốt dần lên. Tôi xin bố mẹ thêm ít thời gian nữa để mọi việc thật sự ổn định, sau đó sẽ thu xếp về nhà ngay khi có thể.

Nước Đức thống nhất đã qua những giây phút hân hoan của việc đoàn tụ gia đình, sự chào đón nhiệt tình của người dân tây Đức đối với người đông Đức đã dần lắng xuống, khi nhiều nhà máy ở đông Đức đóng cửa, hàng nghìn người mất việc làm và một số đông lao động Việt Nam không về nước đang vất vưởng, sống bằng việc “chạy chợ” (bán hàng không ổn định) và cả buôn lậu. Trước tình cảnh ấy, chính phủ Đức có chính sách khuyến khích người Việt hồi hương tự nguyện và chi trả tiền vé máy bay kèm theo cả mấy nghìn Mác tiền mặt cho mỗi người. Nhiều người sau những ngày khó khăn và đối mặt với một tương lai mờ mịt đã chùn bước, quyết định về nước, trong số đó không có chúng tôi.

Gia đình An đông con, riêng con trai cũng mấy người, vả lại An đã yêu một cô gái Việt cùng cảnh ngộ, bán hàng rong như chúng tôi, nên anh ấy không do dự khi quyết định ở lại.

Rồi chính phủ Đức bắt đầu kiểm tra chặt chẽ những người ở lại như chúng tôi. Những ai không có hợp đồng thuê nhà dài hạn và không có công việc làm thì sẽ bị trục xuất. Chúng tôi có hợp đồng thuê nhà dài hạn, nhưng việc bán hàng ở ngoại ô không đăng ký, không nộp thuế cho nhà nước thì không được coi là hợp pháp, nên để có thể được cấp giấy định cư ngắn hạn chúng tôi phải “mua” một hợp đồng lao động bán thời gian cho một nhà hàng người Việt. Cuộc sống của chúng tôi bấy giờ thật sự rất bấp bênh, buộc chúng tôi phải tìm kiếm lối thoát, nên khi có người tiết lộ về dịch vụ kết hôn giả với số tiền khá lớn, chắc chắn có được quốc tịch Đức, nhưng cũng không phải là không có rủi ro nếu người vợ hoặc chồng giả “dở mặt”… tôi đã trăn trở rất nhiều ngày. Tôi bàn bạc với An và lưỡng lự giữa việc này với hướng giải quyết của cậu ấy là dành số tiền có được để đăng ký kinh doanh hợp pháp, trước mắt có được giấy phép định cư lâu dài, không cần có ngay quốc tịch Đức.

Những bức thư của bố mẹ giục giã tôi trở về nhà như thúc đẩy tôi phải quyết định trở thành công dân Đức thật nhanh. Tôi nghĩ rằng, sau khi được nhập quốc tịch Đức tôi có thể về nước cưới vợ và sinh con, sau đó tôi có thể sống ở Việt Nam hay quay lại Đức tiếp tục làm ăn hoàn toàn thuận lợi, do vậy tôi bắt đầu tìm hiểu về dịch vụ kết hôn giả và chuẩn bị tiền. Tôi cố gắng bán hàng thêm giờ, vay mượn chút ít dồn đủ số tiền mười nghìn Mác để cưới một “cô vợ hờ”.

Việc môi giới bí mật thông qua bao nhiêu khâu trung gian, tôi không biết, cho đến một ngày người ta đã đưa tôi đến gặp Helen, người sẽ đem đến cho tôi cơ hội trở thành công dân Đức.

Chương IV

Những ngày bán hàng đã giúp tôi có thêm vốn từ để có thể giao tiếp đơn giản với sự hỗ trợ của tay và các bộ phận trên khuôn mặt, nhưng trong buổi gặp mặt đầu tiên với Helen, tôi lúng túng chỉ mới chào được một câu mặt đã nóng ran, không biết nói thêm gì nữa. Helen cũng có vẻ ngại ngùng, nên sau khi gật đầu chào tôi, cô ấy ngồi im lặng, thỉnh thoảng lại đưa mắt ra cửa sổ, như chờ ai, hai bàn tay mân mê quai túi xách. Cũng may là hôm đó, chúng tôi chủ yếu là nghe người môi giới, kiêm phiên dịch, giải thích lại “hợp đồng” và các thủ tục chúng tôi phải làm.

Theo thỏa thuận, tôi trả tiền dịch vụ môi giới và đưa trước cho Helen một nửa số tiền, phần còn lại tôi sẽ trả cho cô ấy khi tôi nhận được quốc tịch Đức, thời gian ly hôn sẽ do chúng tôi tự thỏa thuận sau khi tôi nhận được quốc tịch Đức. Để mọi việc như thật, tôi phải có một chỗ ở riêng để Helen đến sống chung, nên An phải dọn đến ở cùng hai người bán hàng quen, cũng trong khu nhà.

Đó là một ngày giữa thu, gần ba năm sau khi đặt chân đến nước Đức, trong bộ comple màu ghi xám, với đôi giầy được đánh xi bóng lộn, thật xa lạ đối với bản chất con người tôi, cùng với Helen trong chiếc váy xanh nhạt giản dị, chúng tôi đã bước vào tòa thị chính để làm thủ tục kết hôn với sự chứng kiến của An và hai người bạn gái của Helen là Addie và Bertina, trước khi trở về căn phòng của tôi, lần đầu tiên mở cửa đón một người phụ nữ. Helen chỉ có một chiếc va li không còn mới với cái áo khoác mùa đông để bên ngoài và một túi đồ dùng. Căn phòng nhỏ, nhưng vì cả hai đều ít đồ đạc nên không cảm thấy chật chội dù đã kê hai chiếc giường, một cái bàn nước nhỏ và một tủ quần áo chung. Tôi để cô ấy vào phòng trước để thay đồ, còn mình sang phòng An ngồi uống nước. Lúc tôi trở về phòng, cô ấy đã sắp xếp xong đồ đạc của mình, treo chiếc áo khác ngoài, một áo khoác ngắn và vài bộ váy lấy ra từ vali vào tủ chung, còn những đồ dùng cá nhân vẫn để trong vali và cất dưới gầm giường. Cô ấy mặc chiếc váy hoa nhỏ nền vàng, ngồi bên bàn nước, hai tay đan vào nhau, mơ màng nhìn ra ngoài cửa sổ.

Từ trước tới giờ tôi luôn cảm thấy tự ti, vì vốn tiếng Đức không nhiều, lại xuất thân từ nông thôn kém hiểu biết, nên rất ngại nói chuyện với người Đức. Không biết nên bắt đầu câu chuyện với Helen thế nào, tôi “câu giờ” bằng cách đi đặt ấm đun nước, loanh quanh ngoài bếp công cộng đợi nước sôi, rồi loay hoay mãi mới pha xong hai cốc trà đen mà thật ra chỉ cần nhúng túi trà vào nước sôi là xong việc. Tôi mời Helen uống trà và dù đã gặp nhau mấy lần, nhưng đến hôm nay tôi mới có dịp ngắm nhìn cô ấy.

Helen lớn hơn tôi ba tuổi, cô có khuôn mặt nhân hậu, không có nét nào đẹp nổi bật hay hấp dẫn, hai má có nhiều tàn nhang, tóc màu nâu nhạt, cao hơn tôi nửa cái đầu. Cô ấy tỏ ra rụt rè, khiến cho tôi càng thêm lúng túng không biết phải làm gì. Tôi lục tìm hộp bánh quy, rót thêm nước sôi lần thứ hai vào gói chè đã nhạt màu và có lẽ đã ăn ba bốn cái bánh rồi mà vẫn chưa nói được câu gì. Helen lặng lẽ uống nước trà, mắt vẫn nhìn ra bên ngoài cửa sổ, như đang tìm kiếm con chim nhỏ nào đó giữa hàng cây xanh và vườn hoa bên dưới. Tuy cũng nhìn ra ngoài cửa sổ, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn liếc nhìn cô ấy và nhận ra rằng bên trong cái vẻ bề ngoài ngại ngùng kia là một tâm hồn thân thiện, cởi mở. Tôi nghĩ mình phải là người chủ động trong mối quan hệ không chỉ một vài ngày này, nên bắt đầu bằng lời xin lỗi, rằng sự nghèo nàn tiếng Đức không cho phép tôi nói được nhiều với cô ấy. Helen nhìn tôi mỉm cười hơi gượng gạo trong mấy giây đầu, sau đó cô lấy lại được bình tĩnh và bắt đầu nói rất chậm, bằng những câu đơn giản để tôi có thể hiểu được cô ấy. Chúng tôi đã phá được bức rào cản và cảm thấy thoải mái hơn khi nói chuyện với nhau. Tối hôm đó, tôi mời Helen ăn cơm Việt, với món thịt kho tàu, trứng rán và bắp cải xào được nấu bằng cái nồi duy nhất mà tôi có.

Sáng hôm sau tôi và An trở lại công việc buôn bán thường ngày, còn Helen vẫn muốn đi tìm việc làm. Tối về, nấu cơm xong tôi ăn một mình vì đến lúc tôi chuẩn bị đi ngủ, cô ấy mới về với lời xin lỗi đã làm phiền tôi. Cô ấy vẫn chưa kiếm được việc làm và buổi tối cô ấy qua chỗ bạn gái ăn tối. Tôi giải thích với Helen:

  • Cô là người tự do, nên có thể làm bất cứ việc gì cô muốn và có thể về phòng lúc nào cũng được. Nhưng nếu không ngại thì cô có thể về ăn tối với tôi, vì nấu ăn một mình tôi thấy buồn.

Helen lưỡng lự một lát rồi đồng ý với tôi. Cô ấy đề nghị:

  • Tôi chưa có việc làm cố định nên có nhiều thời gian, tôi sẽ chung tiền mua thức ăn với anh và chuẩn bị đồ ăn trước để khi anh về, chúng ta có thể ăn tối được luôn.

Tôi đưa tiền nhờ cô ấy mua giúp một số dụng cụ nấu ăn và đồ dùng bếp, cô ấy đề nghị sẽ đóng góp một nửa chi phí và muốn tôi hướng dẫn nấu một số món ăn tôi thường ăn. Việc ăn chung tiết kiệm được cả thời gian và chi phí, hơn nữa cũng giúp chúng tôi gần gũi nhau hơn, nên quan hệ giữa hai chúng tôi đã thay đổi rất nhiều chỉ sau một thời gian ngắn. Tôi gợi ý dạy cô ấy may quần áo, khi thấy cô ấy vẫn chưa kiếm được việc làm, Helen đồng ý ngay và mong muốn dạy tôi thêm tiếng Đức. Chúng tôi nói chuyện với nhau nhiều hơn, cô ấy kể cho tôi nghe về những người bạn ở quê, những mơ ước khi quyết định lên thành phố lớn lập nghiệp và nỗi thất vọng khi mọi việc không như tưởng tượng. Cô ấy kể:

  • Quê tôi ở vùng Bavarian, phía nam nước Đức, trong một làng có nghề chăn nuôi bò sữa lâu đời. Từ khi còn nhỏ tôi đã giúp bố mẹ vắt sữa bò, làm các sản phẩm sữa và pho mát. Chúng tôi tự làm bánh mỳ và nhiều loại bánh khác. Quê tôi nằm trong một thung lũng khá rộng, xung quanh là những đồi núi đá không cao, nhưng không có cây lớn, mà chỉ có những bụi cây nhỏ. Cuộc sống ở quê tôi rất thanh bình, nhưng thanh niên trong làng cũng như tôi vẫn luôn mơ ước được đến những thành phố lớn sinh sống, nên học xong trung cấp nấu ăn tôi quyết định đến Berlin để làm việc trong nhà hàng. Chỉ có điều tôi đến không đúng thời điểm, khi mọi thứ đang lộn xộn và việc kinh doanh trở nên bấp bênh, các nhà hàng ít khách, không tuyển nhân viên mới, tôi chỉ tìm được những việc dọn dẹp nhà hàng, rửa bát không cố định, nên chỉ sau vài tháng tôi đã tiêu gần hết số tiền bố mẹ cho, mà vẫn không kiếm được việc làm tử tế. Tôi đang loay hoay tìm cách xoay sở thì được người ta giới thiệu về dịch vụ hôn nhân giả này. Vì số tiền lớn có thể giúp tôi có được một cơ hội mới, nên tôi đã không suy nghĩ nhiều, đồng ý ngay. Đến giờ nghĩ lại, nhiều lúc tôi cảm thấy xấu hổ vì đã tham gia dịch vụ này. Tôi không phải là người lười biếng, chỉ vì lúc đó không có sự lựa chọn nào tốt hơn.
  • Tôi cần sự giúp đỡ của cô và trả tiền cho sự giúp đỡ đó, nên cô không phải áy náy – Tôi cố gắng an ủi cô ấy – Cô đã giúp tôi học thêm tiếng Đức và hiểu biết hơn nhiều về đất nước này, giờ chúng ta đã là bạn bè rồi, thật sự tôi rất vui vì đã gặp được cô.

Cuộc sống của tôi đã thay đổi, giờ đây tôi đã có một người bạn có thể chia sẻ nhiều chuyện vui buồn và giúp tôi biết được cuộc sống bên ngoài việc mua bán ngoài chợ. Tiếng Đức của tôi cũng đã khá lên ít nhiều và qua những câu chuyện Helen kể, tôi đã hiểu biết nước Đức hơn cả hai năm trước cộng lại. Chỉ có điều tôi chưa bao giờ có ý định dậy cô ấy tiếng Việt, nên cô ấy chỉ biết một vài từ vì tò mò hỏi thôi. Bữa tối trước ngày sinh nhật của Helen, khi uống nước trà, tôi nói với cô ấy:

  • Ngày mai sinh nhật cô, tôi muốn tặng cô một chiếc váy, nhưng tôi không biết mua nên tôi muốn cô cùng đi và tự chọn.

Cô ấy ngỡ ngàng nhìn tôi, khuôn mặt ửng đỏ, rồi ngại ngùng đáp.

  • Anh không cần phải làm thế cho tôi đâu. Chúng ta sống hòa thuận như thế này đối với tôi đã là một món quà rồi, anh không cần tặng quà cho tôi đâu.

Cô ấy thật chân thành và nhân hậu. Tôi biết có nhiều người như tôi có cuộc hôn nhân giả và các cô gái trong cuộc hôn nhân đó luôn tìm mọi cách để moi thêm tiền của các ông chồng hờ, còn Helen thì không bao giờ đòi hỏi tôi bất cứ điều gì.

  • Trước hết tôi muốn tặng quà sinh nhật cho cô như một người bạn, sau đó là lời cám ơn vì tất cả những gì cô đã làm cho tôi, đã giúp tôi có được sự tự tin, hiểu biết và vững vàng hơn để tiếp tục bước đi. Tôi muốn nhìn thấy cô vui trong ngày sinh nhật. – Tôi cố gắng bày tỏ tấm lòng chân thành, bằng thứ tiếng Đức lủng củng.

Hôm ấy là một ngày đầu đông, trời bắt đầu lạnh nhưng nắng đẹp, tôi cùng Helen đi ra khu phố cổ. Đây là lần đầu tiên đi mua sắm cùng phụ nữ, mà lại là một phụ nữ Đức nên tôi cảm thấy hơi thiếu tự tin, hơn nữa tôi cũng không biết gì về thời trang nên thấy tốt nhất là để cô ấy tự quyết định. Helen rất vui khi chọn được một chiếc váy dài màu xám, cổ rộng hình trái tim và sau đó chúng tôi đi uống café trong một quán nhỏ bên đường Brandenburg. Chưa bao giờ tôi có cơ hội ngắm thành phố cổ kính tuyệt đẹp này với một tâm trạng vui vẻ và thanh thản như lúc này. Những người qua đường thả bộ trên các con phố như hạnh phúc hơn ngày thường, những cành cây lá đã ngả màu vàng vẫn đầy nhựa sống và những chậu hoa có vẻ rực rỡ hơn như không hề biết đã hết mùa thu…

Mùa đông đối với chúng tôi luôn là thời gian khó khăn nhất, đặc biệt khi chúng tôi đi bán hàng xa thế này, ngày ngắn đêm dài, nên thời gian bán được hàng cũng rất ngắn, dù chúng tôi ra khỏi nhà từ lúc trời còn tối. Tuy vất vả nhưng chúng tôi vẫn có thu nhập tương đối ổn định. Helen đã may tương đối thạo, có thể may cho mình một số váy theo mẫu có sẵn, thậm trí còn sáng tạo thêm những mẫu mới phù hợp với cô ấy. Một buổi tối sau bữa ăn, Helen nói với tôi:

  • Tôi đã báo cho bố mẹ tôi là chúng ta đã làm lễ thành hôn và vì bận nên chưa về thăm gia đình được. Bố mẹ tôi rất mong được gặp anh. Dịp Noel và năm mới này tôi muốn mời anh về nhà bố mẹ tôi chơi, nếu anh không ngại.

Sau vài ngày cân nhắc, tôi đã bằng lòng cùng cô ấy về thăm bố mẹ. Cô ấy đề nghị:

  • Bố mẹ tôi không biết mình chỉ kết hôn giả. Anh có thể giúp tôi giữ bí mật về cuộc hôn nhân của chúng ta được không? Tôi không muốn bố mẹ tôi phải xấu hổ và buồn vì tôi.
  • Giờ chúng ta là hai người bạn và chắc chắn cả cô và tôi đều không muốn làm tổn thương bất cứ người thân nào. Tôi cũng muốn nhìn thấy bố mẹ và gia đình cô vui vẻ, hạnh phúc.

Helen không mua sắm gì nhiều cho chuyến về thăm gia đình. Cô ấy đã may cho bố mẹ bộ khăn trải bàn, khăn ăn, mấy cái tạp dề nấu bếp và để vắt sữa bò và bộ váy bằng vải hoa sẫm màu cho mẹ. Cô ấy mua tặng cho em gái một cái túi vải nhỏ, còn tôi thì mua bánh kẹo, vì ở quê tôi ai cũng thích đồ ngọt.

Bố mẹ Helen sống trong một trang trại rộng với ngôi nhà một tầng gồm bốn phòng ngủ, một phòng khách trông ra khu vườn mùa hè sẽ được trồng hoa, nhưng giờ phủ đầy tuyết, nằm dưới chân những ngọn núi không cao, nhưng trơ trọi toàn đá. Bên trong ngôi nhà được trang trí bằng nhiều khung ảnh lớn nhỏ của mọi thành viên trong gia đình. Phòng khách rộng với hệ thống lò sưởi lâu đời, không chỉ xua tan cái lạnh mà còn tạo cảm giác đầm ấm cho mọi người trong nhà. Một vài cây cảnh trồng trong chậu đã được đưa vào nhà tránh băng giá mùa đông và mang đến sự tươi mát kỳ lạ cho ngôi nhà. Những cây lê, cây táo trong vườn sau nhà giờ chỉ còn trơ lại những cành cây mảnh mai, oằn mình xuống khi tuyết đọng đầy, để rồi khi có cơn gió thổi qua, chúng lấy hết sức bình sinh hất tất cả chỗ tuyết đó xuống đất. Khu chuồng nuôi bò cách nhà khoảng trăm mét, làm bằng gỗ dầy và các khung cửa kính giữ ấm cho con bò trong mùa đông giá lạnh và đặc biệt sạch sẽ khác xa chuồng trâu bò ở Việt Nam, với hệ thống sử lý phân bò và nước thải tiên tiến, vừa tận dụng để bón cho cây, vừa giữ vệ sinh cho môi trường xung quanh.

Bố mẹ và em gái Helen là những người nông dân chất phát và cởi mở, họ coi tôi như con trong gia đình và lấy làm tiếc vì Helen báo quá gấp, không kịp thu xếp để đến dự đám cưới của chúng tôi. Mọi người tổ chức một bữa trưa ngoài trời trong sân phía trước ngôi nhà, mặc dù khá lạnh, nhưng trời hơi hửng nắng nên rất đẹp. Hàng xóm và bạn bè gần gũi được mời tới để chúc mừng chúng tôi. Thực sự lúc đầu tôi rất ngại, vì có dáng người bé nhỏ, lại ít tuổi hơn Helen, nên trông tôi như một thằng trẻ con bên cạnh cô ấy. Và mặc dù tiếng Đức của tôi đã khá hơn rất nhiều, nhưng tôi vẫn không thể hiểu được nhiều nội dung mọi người nói chuyện với nhau. Tôi đành giữ một nụ cười ngớ ngẩn trên khuôn mặt “nghệt như ngỗng” trong suốt bữa ăn. Không chỉ gia đình Helen mà tất cả bạn bè trong bữa ăn đều rất vui vẻ. Họ hỏi chuyện và kiên nhẫn nghe tiếng Đức “bồi” của tôi để đoán ý. Sau bữa ăn, mọi người ngồi hát những bài dân ca mộc mạc và tôi cũng góp vui bằng cách đập nhịp xuống mặt bàn. Sự thân thiện của mọi người đã xóa đi rào cản ngôn ngữ và mặc cảm của tôi đối với người Đức, khích lệ tôi đáp lại bằng những cử chỉ tự tin và mở lòng đón nhận những tình cảm mới.

Những ngày sau, Helen đưa tôi đi thăm mấy khu làng trong vùng. Gọi là làng vì họ cũng chăn nuôi, trồng trọt, nhưng không giống ở Việt Nam, các ngôi làng đều có đường đi lát gạnh hoặc đá sạch sẽ. Không có hệ thống cống thoát nước mở như nhà mình, nên trong làng không có mùi hôi từ chất thải. Các chuồng trại đều được xây dựng theo công nghệ xanh, tái xử dụng phân bò, nên sạch sẽ. Đặc biệt là những ngôi nhà một tầng rất đẹp, nằm giữa các khu vườn, chắc mùa hè sẽ rực rỡ hoa trái. Buổi tối Helen cùng mẹ và em gái chuẩn bị bữa ăn, trong khi tôi đứng ngoài hiên nhà, liên tục xoa tay vào nhau cho ấm và cố gắng hầu chuyện bố cô ấy. Mặc dù không hiểu được nhiều lắm những câu chuyện ông ấy kể, nhưng tôi thấy rất vui như đang nghe bố tôi nói chuyện ở nhà.

Cuộc gặp mặt ở quê với người thân của Helen đã làm thay đổi cuộc đời chúng tôi. Sau mấy năm sống xa nhà, bị bó hẹp trong một cộng đồng nhỏ và cô lập, không có sự hòa nhập với xã hội bên ngoài, giờ đột nhiên được đắm chìm trong không khí yêu thương đầm ấm của tình cảm ruột thịt, tôi cảm thấy rất sung sướng. Khi chia tay ra về sau có mấy ngày, tôi đã là một con người khác. Trên chuyến tàu trở về, tôi đã vận dụng hết vốn từ để có thể nói chuyện với Helen và cô ấy cũng vui vẻ hơn trước rất nhiều. Về nhà, chúng tôi đã chuyển sang ngủ cùng với nhau trên chiếc giường cá nhân lò so đã gião, khiến lưng chúng tôi chạm xuống chiếc vali đặt dưới gầm giường.

Tôi vẫn tiếp tục công việc buôn bán, còn Helen ở nhà may những chiếc áo “cánh dơi”, áo thụng theo mẫu tôi mang về, một mặt hàng bán khá tốt lúc đó. Công việc làm ăn của chúng tôi diễn ra thuận lợi và tình cảm giữa chúng tôi cũng ngày một gắn bó hơn. Nhiều lúc tôi cảm thấy chúng tôi thực sự là một gia đình.

Tết âm lịch đầu tiên sống với Helen, tôi đưa cô ấy đến một quán ăn Việt ở Berlin để cô ấy được nếm thử bánh trưng và giò lụa, còn ở nhà chúng tôi rán nem và gà luộc, hai món ăn cao cấp trước đây chỉ được ăn trong ngày giỗ tết. Tôi đã kể cho Helen nghe về gia đình tôi ở quê, về những kỷ niệm « ngày xưa » khi chạy chân đất trên con đường làng rợp bóng tre, ăn những quả sung chát châm muối ớt hay đi đào dế đem về chọi…Helen rất thích thú với những câu chuyện xa lạ ấy và thường bắt tôi kể chuyện mỗi khi rảnh rỗi. Thỉnh thoảng tôi đưa cô ấy trở lại quán cafe lần đầu tôi ra ngoài uống, giờ đã trở thành quán quen thuộc và yêu thích của chúng tôi.

Tôi và An đã mua chung một chiếc xe ôtô bán tải để đi chở hàng cho đỡ vất vả, nhưng phải mất 6 tháng học lái xe, nên đến đầu hè chúng tôi mới từ bỏ xe buýt và tự lái xe đi bán hàng.

Chương V

Một buổi tối đi bán hàng về, tôi thấy Helen ngồi bên bàn ăn được bày biện đẹp hơn mọi ngày với bộ mặt có vẻ hơi căng thẳng. Tôi chợt lo lắng, không biết có việc gì xảy ra, nên sau khi hôn Helen như thường lệ, tôi ngồi xuống bên cô ấy quên cả rửa tay đầy bụi bẩn. Cầm bàn tay hơi run của Helen, tôi cố gắng hỏi với giọng nhẹ nhàng nhất có thể:

  • Có chuyện gì vậy Helen, sao trông em có vẻ lo lắng thế?

Cô ấy quay sang nhìn vào mắt tôi một lúc lâu trước khi trả lời.

  • Em không bắt anh phải chấp nhận nó, em có thể làm việc để nuôi nó trở thành người tốt.

Nói đến đấy cô ấy bật khóc. Phải mất mấy giây tôi mới chợt hiểu ra. Lúc đầu tôi có phần hơi lúng túng, vì trong thâm tâm tôi vẫn nghĩ chúng tôi chỉ sống với nhau một thời gian, cho dù quan hệ đã khá thân thiết, nhưng rồi mỗi người sẽ mỗi ngả. Cảm giác vừa ngỡ ngàng, vừa vui mừng xen lẫn, khiến tôi không thể nói được ngay câu gì. Helen nhìn tôi lo lắng:

  • Anh không có trách nhiệm gì trong việc này cả, em tự lo được mà.

Tôi lặng lẽ ôm cô ấy vào lòng và nhẹ nhàng hỏi:

  • Em sắp có con phải không? Con của chúng ta phải không?

Cô ấy không trả lời chỉ gật đầu. Chúng tôi im lặng một lúc khá lâu. Tôi dần lấy lại được bình tĩnh và nhận thấy mình không hề lo lắng, mà trái lại cảm thấy rất vui. Đúng là chúng tôi đến với nhau bằng cuộc hôn nhân giả và chỉ lên kế hoạch sống chung một thời gian cho phù hợp với pháp luật, cho đến khi tôi nhận được quốc tịch Đức, nhưng đến giờ chúng tôi đã khá hiểu nhau và cảm thấy gắn bó, thân thiết. Tôi biết mình không muốn bỏ cô ấy và mặc dù chưa biết tương lai sẽ như thế nào, tôi quyết định hỏi:

  • Em có muốn chúng ta thành một gia đình thực sự không ?

Cô ấy ngạc nhiên nhìn tôi và trả lời :

  • Em muốn, nhưng em đã đưa gần hết số tiền nhận được theo hợp đồng cho bố mẹ để mở rộng chăn nuôi ở quê rồi, giờ em chỉ còn lại một ít, kể cả thu nhập từ việc may áo gần đây.

Tôi hiểu và thương cô ấy. Người Đức rất sòng phẳng trong chuyện tiền bạc. Nếu cô ấy có con và không ly dị, cô ấy sẽ là người phá vỡ hợp đồng hôn nhân giả của chúng tôi, cô ấy sẽ phải chịu phạt.

  • Chuyện hôn nhân giả giữa chúng ta sau khi đã trả xong tiền môi giới chỉ còn là sự ràng buộc giữa mình với nhau thôi. – Tôi cố gắng chọn những từ đơn giản, bình tĩnh nói để tránh có sự hiểu lầm – Mọi việc đều do chính chúng ta quyết định mà. Giờ chỉ cần cả anh và em cùng mong muốn việc hôn nhân này thành sự thật, thì chúng ta đã là một gia đình theo đúng pháp luật rồi. Anh và em đã hiểu nhau nhiều hơn trong thời gian qua, anh rất quý mến em và anh cũng tin là em đối với anh cũng vậy. Giờ mình sẽ cùng nhau chăm sóc gia đình và con cái.
  • Em rất quý anh và tin tưởng anh. Dù mình chưa chuẩn bị cho việc nuôi dạy con cái lúc này, nhưng em tin là mình sẽ cùng nhau làm được tốt. Em sẽ kiếm việc làm ổn định để có thêm thu nhập cho gia đình, không muốn anh phải quá vất vả lo toan một mình. – Helen nói.
  • Em đừng quá lo lắng, anh có thể lo được cho em và các con. Em sắp có em bé và việc chăm sóc nó cũng vất vả lắm, giờ chưa nghĩ đến việc làm vội.

Lúc đó tôi đơn giản chỉ nghĩ đến chuyện kinh tế, kiếm tiền nuôi sống gia đình, không ý thức gì về việc nuôi dạy con gái và các vấn đề khác biệt ngôn ngữ, văn hóa.

Chúng tôi đã tổ chức bữa cơm thân mật với các bạn mình để báo tin vui cho họ. An và bạn gái mang đến tặng chúng tôi một bộ chăn gối, giống như đám cưới ở nhà và chân thành nói:

  • Cậu là người may mắn đấy, có nhiều ông đang sống dở chết dở trong các vụ hôn nhân giả như cậu. Không có tình cảm, chẳng phải là vợ mình, nhưng lại phải chu cấp theo yêu cầu ngày càng tăng của mấy cô gái, mà không ly dị được. Lúc đầu mình cũng lo cho cậu, nhưng khi nói chuyện với Helen, mình biết cô ấy là một người tốt, vì cần tiền mà phải làm dịch vụ này thôi. Giờ các cậu hạnh phúc, bọn mình rất mừng.
  • Đúng là mình đã quá may mắn – tôi cám ơn An – gia đình cô ấy cũng rất tốt và tôn trọng mình. Giờ bọn mình lại sắp có con, ông bà già ở quê chắc sẽ vui lắm.

Addie và Bertina đem đến tặng chúng tôi một bó hoa hồng tuyệt đẹp. Các cô ấy ngồi nói chuyện ríu rít với nhau, tôi không hiểu nhiều lắm, nhưng nhìn nét mặt của Helen tôi biết cô ấy rất vui.

Vài tuần sau đó, chúng tôi chuyển sang căn hộ 70 mét vuông, cách chỗ cũ không xa. Tiền thuê nhà tăng lên gấp ba lần, nhưng giờ chúng tôi đã có một chỗ ở khá tốt, có cả phòng ngủ cho em bé và tiện nghi riêng, gồm bếp, nhà tắm và khu vệ sinh. Helen sung sướng dành nhiều thời gian để trang trí lại căn hộ, thay giấy dán tường mới và mua mấy chậu cây nhỏ đặt bên cửa sổ phòng khách. Từ ngày đặt chân tới nước Đức đến giờ, lần đầu tiên tôi có một chỗ ở riêng thật ấm cúng. Chúng tôi bắt đầu sắm sửa thêm các dụng cụ gia đình và cả cho em bé nữa.

Chúng tôi may mắn mua được một quầy bán hàng trong khu chợ cách nhà không xa, bằng số tiền còn lại theo hợp đồng kết hôn giả mà đáng lẽ tôi sẽ phải thanh toán cho Helen. Tôi đăng ký kinh doanh, trở thành người buôn bán đàng hoàng và ổn định. Hàng ngày, cô ấy ra cửa hàng mấy tiếng, giúp tôi làm quen với khách hàng mới và ổn định việc kinh doanh. Giờ thì tôi có thể về nhà sớm hơn trước, cùng ăn tối với vợ và xem vô tuyến. Mai Anh, bạn gái của An ghé qua thăm Helen vài lần trong tháng, dạy cô ấy đan len và nấu một số món ăn Việt. Tôi và An cố gắng thu xếp việc bán hàng để thỉnh thoảng mấy người cùng nhau đi chơi hoặc tới nhà tôi cùng ăn tối. Chúng tôi cố gắng để ổn định và hòa nhập với xã hội hơn, nhưng vẫn chỉ dừng lại ở quan hệ hẹp giữa người Việt và một vài người Đức. Khi bạn của Helen đến chơi, tôi chỉ ngồi nói chuyện một lúc và thường lấy cớ để ra ngoài, vì tôi muốn các cô ấy nói chuyện với nhau thoải mái. Ngoài anh An và bạn gái, chúng tôi cũng quen biết nhiều người Việt trong thành phố, chủ yếu là bạn làm ăn, nên tôi rất ít đưa Helen đi gặp họ và cô ấy không có nhiều bạn bè ở thành phố này nên tôi cũng không mở rộng được mối quan hệ thân thiết với người Đức.

Chúng tôi cùng nhau đón năm mới lần thứ hai cùng An, Mai Anh. Không có cây thông, không có các gói quà được bọc trong giấy màu để tặng nhau, nhưng chúng tôi đã có một buổi tối rất đầm ấm, với mấy món ăn Việt Nam, một con gà tây quay cùng với bia… và những câu chuyện đã xảy ra với chúng tôi gần hai năm qua.

Con trai tôi ra đời vào gần cuối mùa đông, nhưng tuyết vẫn còn rơi. Nó là một đứa trẻ khỏe mạnh và rất đáng yêu, mang dòng máu lai, nước da hơi vàng, mái tóc nâu sẫm từ cha, nhưng lại được thừa hưởng cái khung người ‘dài, rộng’ của mẹ. Vợ tôi đồng ý cho con trai mang họ và tên hoàn toàn Việt, bởi tôi là con trai duy nhất và Đạt – con trai tôi là cháu đích tôn dòng họ Bùi nhà tôi.

Căn hộ của chúng tôi giờ đã thật sự trở thành tổ ấm, từ khi có bé Đạt. Giờ cứ đến chiều là tôi lại sốt ruột, mong chóng đến giờ đóng cửa để về với con trai. Nhiều hôm vắng khách tôi đóng cửa từ sớm. Thằng bé rất ngoan, ít khóc, ăn no là quay ra ngủ, phải ngoài ba tháng tôi mới bắt đầu chơi đùa được với nó. Sợ Helen một mình vất vả tôi thuê chị Bình, một phụ nữ hơn 50 tuổi, sang đây theo con trai buôn bán, nhưng lúc này đang ít việc, nên có thể qua  nhà tôi mấy tiếng mỗi ngày, giúp Helen làm công việc nhà và nấu ăn.

Bố mẹ tôi rất vui khi nghe tin có cháu đích tôn và rất sốt ruột được gặp cháu. Thư nào ông bà cũng hỏi xem thằng bé giống ai, có mau lớn không, rồi nó đã biết làm gì rồi…Tôi chịu khó viết thư đều dặn và gửi ảnh về cho ông bà, tôi hứa sẽ đưa vợ và con mình về nước khi nó được đầy tuổi, để ra mắt bố mẹ tôi và cả họ hàng.

Khi tuyết tan, trên cành cây khẳng khiu những chồi non và nụ hoa, tranh nhau xuất hiện, Helen bắt đầu đưa con trai ra ngoài trời. Khu vui chơi trẻ em gần khu nhà của chúng tôi có bãi cỏ rộng và những hàng cây, xem lẫn cả táo và mơ, mùa xuân trần ngập những bông hoa trắng phớt hồng. Buổi sáng các bà mẹ thường đưa con ra đây chơi. Những đứa lớn có thể tự chơi trong bãi cỏ, hoặc chui luồn qua các vòng tròn, hay đu quay, những đứa nhỏ như con trai tôi thì nằm xe nôi hoặc ngồi trong xe đẩy, còn các bà mẹ thì vừa trông con vừa chuyện trò.

Càng ngày tôi càng cảm thấy mình may mắn vì đã lấy được Helen. Cô ấy là người phụ nữ rất tốt, thương yêu chồng con và không bao giờ đòi hỏi bất cứ điều gì cho bản thân mình. Mọi việc chăm sóc con và nội chợ gia đình, cô ấy đều tự làm lấy hết, kể từ khi con trai tôi được 6 tháng. Cô ấy trang trí phòng cho em bé bằng những con thú bông và trồng thêm cây xanh trong nhà. Căn hộ của chúng tôi lúc nào cũng gọn gàng và vui mắt, với chậu cây nở hoa và trang trí bằng đồ sứ một cách khéo léo. Cô ấy chịu khó nấu ăn cho con trai theo hướng dẫn của tư vấn dinh dưỡng, rất ít khi cho con ăn thực phẩm chế biến sẵn. Cô ấy lo xoay xở chi tiêu cho cả gia đình bằng số tiền tôi đưa, mà chưa bao giờ đề nghị tôi phải đưa thêm. Có nhiều lần tôi đem về nhà cả một cục tiền lớn, mà mấy người chung nhau gom hàng và cất trong tủ quần áo chung của vợ chồng. Helen nhìn thấy nhưng không bao giờ thắc mắc hay tò mò hỏi tôi về số tiền đó, cũng như đòi hỏi tôi đưa thêm tiền chi tiêu cho gia đình. Tôi thật sự tin tưởng cô ấy, nên sau này tôi giao cho cô ấy giữ phần tiền tiết kiệm cho con cái học hành.

Dịp lễ Phục sinh chúng tôi đưa con trai về quê ngoại. Thảm cỏ và vườn hoa trước nhà bố mẹ Helen, lần trước chúng tôi về là mùa đông, chỉ có tuyết trắng bao phủ, giờ đã rực rỡ nhiều loài hoa. Được gặp lại gia đình Helen, tôi rất vui. Ông bà ngoại yêu thương cháu trai hết mực. Họ tranh nhau bế nó, ngắm nhìn lúc thằng bé ngủ, chơi đùa với nó khi nó thức và đẩy nó đi chơi ngoài vườn và trong làng. Tôi và Helen cũng dành thời gian đi dạo xung quanh trong khi ông bà đưa thằng bé đi chơi. Khoảng thời gian thăm gia đình nhà vợ đối với tôi thật quý giá, vì chỉ lúc đó tôi mới tách được khỏi những toan tính hàng ngày để thực sự tận hưởng niềm hạnh phúc giản dị, nhưng ngọt ngào của cuộc sống.

Trở về nhà, chúng tôi đi dự đám cưới của An và Mai Anh, người bạn mà từ lâu chúng tôi đã coi như ruột thịt. Họ cũng thuê một căn hộ cách chỗ chúng tôi vài bến tàu, nên chúng tôi có thể thường xuyên qua nhà nhau ăn tối vào cuối tuần. Addie và Bertina thỉnh thoảng qua chơi với vợ con tôi và đưa thằng bé đi dạo chơi khắp nơi. Các cô ấy còn chơi đùa và dạy con trai tôi tập đi, nhiều hơn cả bố nó, thậm trí những từ đầu tiên con tôi nói được cũng do mẹ nó và các cô ấy dạy. Vì bận bán hàng nên tôi ít có dịp gặp và nói chuyện với các cô ấy.

Tôi đã phải dành nhiều thời gian để chuẩn bị cho chuyến về thăm nhà vào cuối năm. Tôi viết thư cho bố mẹ, hỏi han cặn kẽ mọi chuyện và cũng giải thích trước mọi tình huống có thể xảy ra. Rồi tôi phải giải thích rất kỹ những khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, tập quán của người Đức, để mọi người chuẩn bị. Còn đối với Helen, chuyến ra mắt gia đình nhà chồng lần đầu này thật sự là một thử thách. Mặc dù đã tiếp xúc với những người Việt ở đây, biết nấu vài món ăn Việt và nghe tôi kể rất tỉ mỉ mọi chuyện ở nhà, nhưng đối với cô ấy, Việt Nam vẫn là một mảnh đất vô cùng xa lạ. Dù vậy, Helen không cảm thấy sợ hãi mà ngược lại cô ấy đã sẵn sàng và hào hứng chuẩn bị chuyến đi.

Dù ở quê đã khá hơn nhiều so với mấy năm trước khi tôi đi, nhưng vẫn có khoảng cách khá xa so với cuộc sống bên này, cả về kinh tế và văn hóa xã hội.

Chuyến ra mắt gia tộc họ nội của gia đình tôi diễn ra khá tốt đẹp, nhờ tính tình hiền hậu và sự chịu đựng của của Helen. Vừa đặt chân tới đầu làng, cô ấy đã bắt gặp những cái nhìn chằm chằm, những câu nói và tiếng cười không hiểu được của tất cả mọi người. Dường như cả làng đều có mặt để xem chúng tôi và không ngớt lời bàn tán và hầu như ngày nào trẻ con trong làng cũng thập thò ngoài cổng nhà tôi, rồi thoáng thấy bóng người trong nhà bước ra là chúng hò nhau chạy và cười như nắc nẻ. Hàng rào ngôn ngữ và văn hóa ứng xử mới lạ là những thử thách lớn đối với Helen. Chúng tôi phải đến thăm hỏi và biếu quà rất nhiều gia đình trong họ hàng, đến đâu cũng phải giới thiệu, nhắc tên và xưng hô, còn thằng bé thì bị chuyền tay suốt buổi, vì ai cũng muốn bế nó…Một bữa cơm thân mật với họ hàng, mặc dù đã rất giới hạn mời, cũng gần hai chục mâm, ngồi la liệt từ trong nhà ra đến ngoài ngõ, kéo dài hai ngày kể từ khi bắt đầu mổ lợn đến lúc dọn dẹp xong xuôi. Chúng tôi còn phải làm rất nhiều nghi lễ từ lễ đình làng, đến lễ nhà thờ họ để ghi tên con trai tôi vào gia phả họ Bùi và cuối cùng là lễ tại nhà bố mẹ tôi. Helen làm theo tất cả những gì tôi chỉ dẫn với một thái độ bình tĩnh và nhẫn nại. Cô ấy không hề tỏ ra khó chịu hay mệt mỏi khi phải dỗ con mỗi lần nó bị nhiều người sờ mó hay phải tham dự nhiều lễ nghi trong ngày. May mà sự thay đổi nết sống đột ngột và liên tục trong mấy ngày không làm thằng bé bị ốm hay quấy khóc.

Ngoài sự vất vả để làm theo những nghi lễ ở quê tôi, Helen và con trai tôi còn khổ sở vì môi trường lạ. Cô ấy và thằng bé bị lũ muỗi và những con dĩn nhỏ như đầu tăm tấn công không thương tiếc và lũ ruồi bám theo lằng nhằng, dù mùa đông lạnh côn trùng đã ít hơn mùa hè rất nhiều, nhưng Helen vẫn thích đưa con ra ngoài vườn chơi. Bố mẹ tôi đã xây nhà vệ sinh tự hoại, nhưng vẫn không có bệ ngồi như ở châu Âu, rất bất tiện với người nước ngoài vì không thể ngồi « xổm » như người Việt, tuy vậy Helen đã cố gắng làm quen và không phàn nàn câu nào. Gần một tháng làm dâu, Helen đã làm bố mẹ tôi hài lòng và họ hàng yêu quý. Tuy chỉ hiểu được rất ít câu tiếng Việt, nhưng cô ấy rất kiên nhẫn ngồi nghe mẹ tôi kể lể và luôn vui vẻ cười theo khi thấy mẹ tôi cười. Tôi vô cùng biết ơn Helen vì cô ấy đã cư xử rất đúng mực, thậm trí còn hơn rất nhiều con dâu Việt từ thành phố.

Nếu như tôi cảm thấy thoải mái và vui vẻ vì sự chân thành và cởi mở của mọi người khi về quê Helen, thì chính bản thân tôi lại cảm thấy mệt mỏi với những thủ tục rườm rà, khách sáo và quá phức tạp ở quê mình. Trở về Đức, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm, chưa biết khi nào mới có chuyến đi thứ hai.

Chương VI

Vợ chồng An sinh con trai sau con tôi năm rưỡi nên hai nhà trở nên bận rộn hơn. Hai bà mẹ phải lo chăm sóc con và việc nhà, còn hai ông bố cũng phải lao vào kinh doanh để đảm bảo cuộc sống cho gia đình lớn hơn của mình. Công việc buôn bán của chúng tôi đã ổn định, không vất vả nhưng lại tốn nhiều thời gian, vì vừa phải tìm nguồn hàng nhập về bán, vừa phải tìm khách hàng để có đầu ra, nên thời gian dành cho con cái không có nhiều. Chúng tôi chấp nhận đóng cửa hàng vào một ngày trong tuần để có thể đưa vợ con ra ngoài hay đến nhà nhau chơi và một năm cũng có khoảng một tuần hay mười ngày nghỉ để về nước hoặc đi chơi đâu đó.

Con gái chúng tôi ra đời cách anh nó ba tuổi, là cô bé xinh xắn, giống mẹ từ mái tóc màu nâu sáng, nước da trắng đến đôi mắt xanh, chẳng có chút gì thừa hưởng của tôi cả. Cũng giống anh nó, con gái tôi tên là Quyên và đầy đủ tên, họ theo người Việt, mặc dù về hình thức bé hoàn toàn không có chút gì giống người Việt.

Chúng tôi cho bé Đạt đi mẫu giáo từ trước khi Helen sinh con gái, nên cô ấy có nhiều thời gian để chuẩn bị chu đáo cho con khi chào đời. Cô ấy tự trang trí căn buồng nhỏ cho con gái bằng giấy dán tường có những bông hồng nhỏ và một con thỏ bông màu hồng, trong căn hộ mới, rộng hơn trước, vẫn cùng tòa nhà. Trong sáu tháng sau khi Helen sinh con, hàng ngày tôi đưa đón con trai đi mẫu giáo và cũng tranh thủ dạy thêm cho con tiếng Việt, nhưng vì cả ngày ở lớp và cả tối quấn quít bên mẹ, nên nó không nhớ được nhiều. Khi con gái bắt đầu tập nói, tôi muốn dạy nó tiếng Việt, nhưng cũng như với con trai, tôi không có nhiều thời gian bên chúng, ban ngày bọn trẻ sống trong môi trường của Đức, thầy cô giáo người Đức, các bạn nói với nhau bằng tiếng Đức, tối về cả nhà lại nói chuyện bằng tiếng Đức… nên tôi không có cơ hội nào để những từ tiếng Việt có thể chen chân. Để có chuyện kể cho bọ trẻ nghe mỗi tối, tôi đã mua mấy quyển cổ tích, cả Việt Nam và thế giới, nhưng có vẻ như bọn trẻ thấy khó tưởng tượng khi nghe chuyện Tấm Cám, nhất là cảnh mò cua, bắt ốc hay màn trèo cau ngoạn mục … khiến tôi phải giải thích rất dài dòng, trong khi chúng có thể hiểu ngay được việc Lọ Lem được ba hạt dẻ mà bố cho, đã mang đến cho cô bộ váy đẹp hay đôi giầy thủy tinh lấp lánh như thế nào. Có một điều chung là dù chuyện cổ tích Việt Nam hay nước nào khác thì tôi vẫn phải kể cho con tôi nghe bằng tiếng Đức.

Con trai thứ hai của vợ chồng anh An chỉ kém con gái tôi có mấy tháng, nên bọn trẻ sàn sàn bằng nhau, cùng học một trường. Khi con gái tôi đi mẫu giáo thì anh nó bắt đầu đến trường học. Vì mải mê công việc, tôi không có nhiều thời gian cho con cái, nên việc dạy dỗ con, chọn trường học và các môn ngoại khóa cho con, tôi đều để Helen quyết định. Hàng ngày cô ấy lái xe đưa bọn trẻ đi học, nhiều hôm nhà An có việc bận thì cô ấy qua nhà đón và đưa cả bọn trẻ nhà An đi học cùng. Cô ấy đưa chúng đi học vẽ, đi đá bóng, thậm trí có năm cô ấy còn đại diện phụ huynh học sinh đi trại hè cùng bọn trẻ.  Ít thời gian gần gũi con cái, nhưng bản thân tôi cũng không hề có ý thức dạy con tiếng Việt, hay cố gắng nói tiếng Việt nhiều cho chúng nó quen, vì ở nhà chỉ có mình tôi nói tiếng Việt nên cũng khó. Sách truyện và tranh ảnh về Việt Nam chỉ có vài quyển chúng tôi mua mỗi lần về Việt Nam, không đẹp như sách ở đây, nên bọn trẻ chỉ xem qua một lần và không sờ đến nữa. Phim ảnh, tivi hầu như không có thông tin gì, nên hình ảnh về Việt Nam đối với các con tôi chỉ là những gì cóp nhặt được từ những chuyến thăm quê như một người khách du lịch nước ngoài.

Càng lớn, các con tôi càng mất đi các nét châu Á, vì chúng cao và trắng trẻo không khác gì trẻ con Đức cùng tuổi, lại học và lớn lên trong văn hóa Đức. Ngay cả hai đứa trẻ nhà An và Mai Anh, mặc dù bố mẹ đều là người Việt, nhưng vì đi nhà trẻ từ lúc tập nói, các cô giáo và bạn bè đều nói tiếng Đức, nên chúng cũng nói tiếng Đức thạo hơn tiếng Việt. May là khi ở nhà bố mẹ nói chuyện với nhau và với bọn trẻ bằng tiếng Việt, bắt buộc phải nghe tiếng Việt, nên chúng còn nói được ít nhiều. Nhưng các con tôi chẳng học được gì từ hai đứa con nhà An, vì khi gặp nhau chúng chỉ nói tiếng Đức và những chuyện chúng thích, quan tâm chắc chắn chẳng liên quan gì đến Việt Nam cả.

Khi bọn trẻ chưa tới trường, Helen thường xuyên đưa chúng về thăm ông bà ngoại, lúc đã đi học thì nghỉ hè chúng ở quê ngoại cả tháng. Một vài lần chúng tôi mời cả gia đình An và lũ trẻ về quê Helen, cả hai đứa đều rất thích thú và gia đình nhà vơ tôi cũng rất yêu quý vợ chồng và các con của An, nên mọi người đều có khoảng thời gian thật vui vẻ ở đây. Chúng tôi đã mang theo một số gia vị, nấm hương và bánh đa làm món nem và nấu phở để mọi người cùng thưởng thức món ăn Việt. Mai Anh vợ An rất thích làm các loại bánh mà mẹ Helen hay làm, cô ấy học rất nhanh và thỉnh thoảng cùng Helen làm các loại bánh đó ở Postdam.

Tôi vẫn chúi đầu vào việc buôn bán, lo kiếm tiền để đảm bảo cho các con tôi và gia đình có một cuộc sống vật chất đầy đủ, đồng thời tôi vẫn lo trách nhiệm con trai trưởng của mình, vẫn gửi tiền hoặc hàng hóa về cho bố mẹ ở nhà. Sau bảy năm xây dựng gia đình, chúng tôi đã mua được căn hộ của mình, không còn phải đi thuê nữa. Chỗ ở mới của chúng tôi có đủ phòng riêng cho bọn trẻ, nằm rất gần trường học, khu thể thao dành cho thanh thiếu niên và một công viên nhỏ nằm bên hồ. Chúng tôi may mắn đã mua được căn hộ ở đây, nơi có không khí trong lành và rất thuận tiện.

Điều kiện kinh tế tốt hơn nên cứ khoảng hai, ba năm tôi lại đưa vợ con về thăm nhà một lần. Tôi đã gửi tiền về để xây lại nhà cho bố mẹ cùng hệ thống công trình phụ hiện đại, nên về quê bây giờ cũng không quá ngại vì điều kiện sinh hoạt nữa, nhưng khoảng cách về văn hóa thì ngày càng xa hơn. Lúc bé, bọn trẻ còn bập bẹ vài câu tiếng Việt, giờ nghe ông bà nói chúng hiểu lõm bõm nhưng nhất định trả lời bằng tiếng Đức. Với lũ trẻ con của hai em gái tôi, chúng cũng tỏ ra thích thú khi gặp, nhưng vì không nói chuyện được nên chỉ chào hỏi và cười với nhau một lúc là con tôi và lũ trẻ lại nói chuyện riêng với nhau bằng hai ngôn ngữ không giúp chúng hiểu nhau hơn được. Vì không biết tiếng Việt nên khi về thăm Việt Nam chúng không dám tự đi chơi đâu. Chỉ ra đến cổng nhà thì bọn trẻ trong làng đã bu đầy và mặc dù không cố tình đùa ác ý, nhưng nhiều khi đứa nọ đùn đẩy đứa kia, xô vào con tôi cũng khiến chúng sợ hãi, không nói gì đến chuyện tham gia trò chơi với trẻ con làng. Đồ ăn, thức uống chỉ cần để một lúc đã dụ cả bầy ruồi bay lượn xung quanh. Những món bánh quê thơm ngon bọc trong mấy tầng lá không hấp dẫn hai đứa con tôi. Dường như chúng cảm thấy hoàn toàn xa lạ với tất cả những gì ở quê nội, mặc dù đã nhiều lần về. Càng lớn các con tôi lại càng ngại đi thăm họ hàng hay đi chơi trong làng mỗi khi về quê tôi, nên những lần gần đây, chúng tôi chỉ ở quê khoảng một tuần, đủ để thăm hỏi họ hàng, sau đó đưa cả bố mẹ và gia đình các em đi nghỉ cùng gia đình tôi ở các vùng biển miền trung và miền nam. Helen và lũ trẻ đặc biệt thích biển, có thể phơi nắng cả ngày trên bờ biển hay trong bể bơi…Nhưng bố mẹ tôi không vui, nhiều lần bố tôi than thở :

  • Cháu mình thật đấy mà lại không phải cháu mình. Càng nhìn càng chẳng thấy nó có gì giống mình. Mặc dù bố mẹ rất yêu thương chúng nó, nhưng rào cản ngôn ngữ, văn hóa lớn quá. Bố mẹ chịu không thể biết chúng nó nghĩ gì, thích gì, chúng nó lại càng chẳng biết ông bà nó có cuộc sống ra sao. Nó nói gì mình cũng chẳng hiểu, mình nói gì nó cũng không hay, không thể diễn tả được tình cảm, suy nghĩ thì làm sao có thể thương yêu và cảm thông được, nói gì đến việc chăm sóc lúc tuổi già hay thờ cúng sau này. Bố mẹ không trách các con hay các cháu, vì đấy là do hoàn cảnh, chỉ thấy buồn thôi. Hay là con đưa bọn trẻ về nhà chơi cả ba tháng hè hay về sống vài năm với ông bà cho quen cuộc sống ở Việt Nam ?
  • Bọn em rất quý chị và các cháu những cũng ngại chẳng biết nói chuyện gì. Chị ấy là người nước ngoài đã đành, các cháu là ruột thịt của mình mà cũng cảm thấy rất xa, nhiều lúc muốn mời cháu ăn, mua cho cháu món quà, nhưng không biết nói thế nào và cũng không biết chúng nó có thích không. – Em gái tôi cũng tâm sự.
  • Con biết là con có lỗi vì đã dành ít thời gian dạy con tiếng Việt và kể chuyện về nhà mình cho chúng nó. Nhưng thật sự khó, khi chúng nó sống, học, chơi…đều với người Đức và nói tiếng Đức, còn con thì buôn bán suốt ngày. Nhưng con cũng không thể đưa cháu về nhà sống vài năm được, vì để theo học ở trường mình, các cháu phải mất nhiều năm học tiếng Việt, rồi cách giáo dục khác nhau, rất khóa hòa nhập, chưa kể là về hình thức, cháu trai còn có nét giống người Việt, chứ cháu gái thì hoàn toàn « tây », nên con nghĩ là rất khó. Con sẽ cố gắng hơn để có thể giúp các cháu gần với người Việt hơn – Tôi chẳng biết nói gì hơn để an ủi bố mẹ và giúp chính mình thoát khỏi sự áy náy.

Tôi mua sắm bộ thờ cúng mang sang Đức, cũng đặt đóng tủ thờ và cố gắng bày biện một phòng mang nhiều nét Việt, như bộ ấm pha trà, mấy câu đối. Vào ngày giỗ Tết, Helen cũng nấu cơm theo chỉ dẫn của Mai Anh, bày lên để cúng gia tiên, nhưng như vậy không đủ. Văn hóa hay phong tục tập quán Việt phải được tiếp cận từ bé và phải được thực hành trong môi trường Việt thường xuyên, đằng này tôi bận rộn suốt ngày, nên tất cả những thứ tôi mang từ nhà sang chỉ có tính chất trang trí, không giúp con tôi trở thành người Việt được.

Những người Việt buôn bán ở đây cũng đều có cuộc sống nghèo về văn hóa Việt đến thảm hại. Chỉ có một vài gia đình thuộc loại khá giả mới có điều kiện mua sắm từ Việt Nam một số đồ vật, đồ dùng và tổ chức các nghi lễ theo phong tục ở nhà, còn đa phần những người buôn bán, làm nhà hàng…lao động mười mấy giờ một ngày và bảy ngày trong tuần thì không thể làm thế được. Mỗi năm ngày Tết nguyên đán hay ngày Quốc khánh, hội đồng hương Việt Nam cũng tổ chức các hoạt động văn hóa Việt, nhưng tôi cũng không biết có thật sự đúng với phong tục ở nhà hay không, ngoài tà áo dài của chị em và bánh trưng ngày Tết. Nhưng có một nghịch lý là thế hệ già chỉ nói tiếng Việt, biết rất ít tiếng Đức và văn hóa Đức, nhưng cũng không biết gì nhiều về văn hóa Việt để dạy lại cho thế hệ sau, còn thế hệ sau thì không nói tiếng Việt và chẳng biết tý gì về văn hóa Việt, chỉ nói tiếng Đức và sống trong văn hóa Đức.

Mỗi lần về quê tôi, không chỉ Helen và bọn trẻ mà ngay cả tôi cũng cảm thấy mệt mỏi vì nhiều thứ, nhưng ngược lại khi về quê ngoại nơi bố mẹ Helen sống thì tôi lại cảm thấy rất thoải mái, nhẹ nhàng, còn bọn trẻ thì đương nhiên là vô cùng thích thú. Bọn trẻ có thể vào chuồng bò và học vắt sữa bò hay cùng bà ngoại nướng bánh, làm pho mát, vào rừng hái nấm và quả cây với ông bà hoặc chạy chơi khắp làng, đi xe đạp đến tận cuối con đường ở chân núi, hay đi xa hơn lên các vùng núi xung quanh cùng lũ trẻ và gia đình em gái Helen. Nhưng về quê tôi thì chúng lại sợ lũ trâu lấm bê bết bùn, suốt ngày đập đuôi để đuổi lũ ruồi vo ve quấy rối. Ngay cả việc gói bánh trưng là điều chúng thích nhất, chúng cũng chỉ đứng nhìn và đến khi bỏ bánh vào nồi rồi thì chúng không quan tâm nữa, những củ khoai hay bắp ngô nướng chỉ khiến chúng tò mò mà không dám ăn. Đêm giao thừa ở quê thì quá nhiều thủ tục, nào làm cỗ tất niên, cỗ cúng gia tiên, cỗ cúng giao thừa ngoài sân, trong nhà, đốt vàng mã…khiến cho người lớn tất bật, vội vã và mệt phờ, chẳng còn sức đâu mà quan tâm đến bọn trẻ được nữa, thậm trí còn quát mắng khi chúng chạy  nhảy làm quẩn chân người lớn. Nhưng ở nhà ông bà ngoại, bọn trẻ lại giúp bà làm bánh ngọt và xếp quà quanh cây thông, rồi cả nhà ngồi vừa ăn vừa nói chuyện, chờ đợi giây phút mở quà và dành cho nhau những câu chúc mừng đầy tình cảm yêu thương và chia sẻ.

Chương VII

Helen không chỉ lo toàn bộ chuyện học hành của con cái, mà cô ấy còn thay mặt tôi làm tất cả mọi việc liên quan đến chính quyền địa phương hay pháp luật. Tôi thấy mình may mắn, không phải như An gánh trách nhiệm đại diện gia đình, phải phơi mặt ra ở mọi nơi, mọi chỗ, mà không nhận thấy rằng tôi đã phụ thuộc hoàn toàn vào vợ mình. Ngoài việc buôn bán kiếm tiền mà hầu như chỉ trong cộng đồng người Việt của thành phố, tôi chẳng biết gì nữa cả.

Helen bận rộn với việc đưa đón con đi học và nội chợ cho gia đình, dành thời gian dạy con gái may và nấu nướng, nên thỉnh thoảng cô ấy mới sang chơi và nói chuyện với mấy người hàng xóm hay ra cửa hàng nhà tôi hoặc đi mua sắm với Mai Anh. Tôi và An cố gắng thu xếp để có thể đưa bọn trẻ đi du lịch các thành phố và các nước châu Âu khác, mỗi dịp bọn trẻ được nghỉ học.

Gần mười lăm năm chung sống với Helen tôi đã có một quãng đời khá êm đẹp, công việc kinh doanh ổn định, hai đứa trẻ được mẹ chăm sóc cẩn thận rất ngoan và học tập tốt. Tôi hài lòng với những gì mình có và luôn thầm nghĩ mình là một người may mắn, cho đến ngày tôi bỗng nhận thấy Helen gầy đi và có vẻ mệt mỏi. Mỗi lần tôi hỏi thì cô ấy lại có một lý do, khi thì cô ấy bảo:

  • Bọn trẻ đã lớn, đang trong giai đoạn phát triển, có thể do em lo lắng quá nên trông mệt mỏi đấy thôi. Em sẽ ra ngoài nhiều hơn cho thoải mái hay đi tập một loại hình thể thao nào đó vậy.
  • Giờ em đã gần 50 tuổi rồi còn gì anh, không thể như thời thanh niên được. Em vẫn thấy ổn mà, chỉ là do em ăn ít hơn nên gầy đi, nhưng giảm bớt cân em lại người nhẹ nhõm hơn đấy.

Tôi nghe nói tập yoga rất tốt cho phụ nữ, nên cũng khuyên cô ấy tìm hiểu xem có thể tham gia tập, nhưng tôi vẫn không yên tâm, nên đã quyết định đưa cô ấy đi khám. Bác sỹ yêu cầu cô ấy làm rất nhiều xét nghiệm, dường như có một điều gì đó nghiêm trọng mà họ chưa chắc chắn để nói ra.

Sau mấy ngày kiểm tra kỹ, cuối cùng, chúng tôi nhận được tin sét đánh, Helen bị ung thư đã vào sang giai đoạn hai. Tôi hoang mang và không biết phải làm gì, nhưng Helen lấy lại bình tĩnh rất nhanh và tỏ ra vô cùng cứng rắn, cô ấy còn động viên tôi :

  • Giờ y học đã phát triển hơn rất nhiều rồi, đã có nhiều phương pháp và thuốc chữa ung thư hiệu quả, anh đừng lo lắng quá, vẫn còn chưa quá muộn, mình còn nhiều hy vọng mà.

Chưa bao giờ tôi thấy mình yếu đuối đến thảm hại như vậy. Lẽ ra tôi phải là chỗ dựa cho cô ấy, thì tôi lại mềm nhũn ra, như thể chính tôi mới là người bị bệnh, khiến cô ấy lo lắng cho tôi. Cô ấy phải gọi điện cho An, mời anh ấy đến giúp tôi.

Tôi không còn nhớ tôi đã vượt qua những ngày đầu khó khăn ấy như thế nào. Theo phác đồ điều trị của bác sỹ, Helen đã được chuyền hóa chất và trị xạ. Trong suốt thời gian cô ấy nằm viện, tôi không còn tâm trí nào để tiếp tục kinh doanh, tôi thuê người bán hàng, nhờ An và vợ anh ấy trông hộ cửa hàng. Mấy đứa trẻ nhà anh ấy thường xuyên sang chơi với các con tôi và tôi nhận trách nhiệm đưa, đón bọn trẻ đi học, sau đó vào bệnh viện thăm Helen. Chỉ những ngày phải chuyền hóa chất hay trị xạ cô ấy mới nằm trong phòng, còn những lúc thấy khá hơn cô ấy muốn tôi đẩy xe, đưa cô ấy ra khu vườn trong bệnh viện, mặc dù trời khá lạnh. Đến lúc này, tôi mới nhận ra rằng, mình đã dành cho Helen và các con quá ít thời gian, đã không chia sẻ cuộc sống tình cảm với vợ con nhiều năm rồi.

Dần dần sức khỏe cô ấy có phần tốt hơn, mặc dù tóc cô ấy đã rụng gần hết, Helen được bác sỹ cho về nhà, tiếp tục uống thuốc điều trị và theo dõi. Giờ đã có người bán hàng thuê, nên tôi chỉ lấy hàng và chạy qua chạy lại cửa hàng thôi, như vậy tôi có nhiều thời gian cho gia đình.

Khi sức khỏe đã phục hồi đôi chút, Helen cố gắng trở lại cuộc sống như trước đây, quan tâm đến việc học hành của các con và công việc nội trợ trong gia đình. Cô ấy lại tham dự các buổi họp phụ huynh với nhà trường, đến xem các trận đá bóng của con trai và những vở kịch mà con gái tôi tham gia đóng. Giờ đi cùng cô ấy, tôi mới có cơ hội biết nhiều hơn về các con mình, tôi cảm thấy mình đúng là một người bố vô tâm suốt bao năm nay. Mặc dù vẫn uống thuốc và đến khám bác sỹ thường xuyên, nhưng Helen không nhắc đến bệnh tật hay tỏ ra mệt mỏi khi có mặt cả gia đình. Cô ấy còn vui vẻ đưa ra các gợi ý như mời nhà An sang ăn cơm  hay cho lũ trẻ đi tham quan hoặc về thăm ông bà ngoại. Cô ấy cũng bắt đầu đi tập yoga do một người Ấn Độ hướng dẫn với một sự thích thú. Cuộc sống của chúng tôi cũng dần ổn định trở lại nhờ sự lạc quan và nghị lực của Helen.

Vào kỳ nghỉ lễ Phục sinh, với bộ tóc giả cô ấy tự tin cùng gia đình tôi về Việt Nam. Tôi đã kể qua về bệnh của Helen cho bố mẹ tôi biết, nhưng tôi không muốn mọi người coi cô ấy như người bệnh, nên chúng tôi vẫn đi thăm hỏi và mời cơm họ hàng như mọi lần và xin phép dành thời gian đưa cô ấy và các con đi du lịch vài nơi. Helen và bọn trẻ đã đến Hà Nội nhiều lần nhưng chỉ đi qua hoặc ngủ lại một đêm, nên lần này tôi quyết định dành ba ngày. Gia đình đi bộ qua các phố cổ Hà Nội, mà bản thân tôi cũng không được rành cho lắm. Về tên phố, tôi đoán ngày xưa chủ yếu bán hàng gì thì sẽ đặt tên cho phố như vậy, nên mạnh dạn giải thích cho vợ con, nhưng tôi không biết tại sao người ta lại đặt tên là phố Hòe Nhai, phố Cầu Gỗ nằm giữa các phố « hàng »…Chúng tôi đã ăn bún chả tại phố Hàng Mành và ăn chè thập cẩm trong khu chợ ẩm thực ngõ chợ Đồng Xuân. Helen và bọn trẻ rất thích sự nhộn nhịp và màu sắc trên các phố Hàng Mã, hàng Đào… và tôi cũng không biết nhiều về tục lệ ở Việt Nam để có thể giải thích cho vợ con về những thứ đồ bán ở phố hàng Mã, hay những đồ thờ cúng giờ bán nhiều ở phố hàng Thiếc, Thuốc bắc… và lần đầu tiên tôi và vợ con đi xem Múa rối nước và nghe hát Tuồng như những người khách du lịch nước ngoài, tôi chỉ hơn vợ con là hiểu tiếng Việt, nên biết được nội dung. Chúng tôi đi thăm những ngôi chùa, ngôi đền nổi tiếng ở Thủ đô, ăn các món đặc sản Hà thành, sau đó bay vào Sài Gòn. Chúng tôi đi nghỉ ở biển Mũi Né gần một tuần trong một khu resort nhỏ, có khoảng 30 biệt thự xinh xắn nằm giữa vườn dừa lúc nào cũng râm mát và một bể bơi khá rộng. Hàng ngày Helen nằm đọc sách trên ghế dài bên cạnh bể bơi, còn lũ trẻ thì hết xuống biển ngụp lặn lại bơi lội trong bể hay nằm phơi nắng trên bờ biển. Mỗi tối chúng tôi lại đi ăn các món ăn địa phương trong các nhà hàng khác nhau ngay bên bờ biển, Helen và con gái tôi thích lượn qua các cửa hàng nằm san sát trên phố, còn tôi và con trai về quán bar trên bờ biển cạnh khách sạn uống cafe. Hiếm khi bố con tôi có thời gian bên nhau như thế này, nên tôi cũng tranh thủ tâm sự với nó về chuyện gia đình, chuyện học hành, bạn bè… Chúng tôi ở lại Sài gòn ba ngày trước khi trở về Đức để bọn trẻ có thể mua ít quà cho bạn bè và ông bà ngoại.

Chuyến đi Việt Nam lần này có lẽ đã để lại ấn tượng nhiều nhất đối với gia đình tôi, nhất là bọn trẻ. Mọi người còn nói chuyện về chuyến đi suốt mấy tuần khi trở về, thậm trí con gái tôi còn lên kể chuyện cho các bạn trong lớp nghe những điều nó thấy, qua những hình ảnh nó tự chụp từ chuyến đi.

Suốt bốn năm, chưa bao giờ Helen tỏ ra yếu đuối, sợ hãi hay đau khổ. Cô ấy không chỉ kiên cường chiến đấu với bệnh tật và còn động viên cả mấy bố con tôi tin tưởng, lạc quan. Cô ấy không bao giờ nhắc đến bệnh tật, cố giữ cho cuộc sống gia đình bình thường. Cô ấy làm tất cả những gì có thể để thời gian còn lại của cô ấy là những ngày vui vẻ và hạnh phúc.

Nhưng thời gian không ủng hộ chúng tôi. Sau bốn năm sức khỏe của Helen có vẻ tốt lên, thì đến ngày bệnh chuyển biến xấu. Cô ấy yếu đi rất nhanh và phải vào bệnh viện. Chúng tôi hiểu rằng, chúng tôi sẽ mất cô ấy.

Chương VIII

Helen nằm bệnh viện hơn hai tháng với sự chăm sóc chu đáo và y học hiện đại, nhưng bệnh tình vẫn ngày một nặng hơn. Khi biết không thể chữa được hơn nữa, Helen đã nói với tôi :

  • Em muốn về nhà, ở đây các bác sỹ chăm sóc rất tốt, nhưng em muốn được sống bình thường với anh và các con những ngày cuối.
  • Anh sẽ đưa em về nhà, anh cũng nghĩ là cuộc sống gia đình có thể là liều thuốc tốt cho sức khỏe của em. Bố con anh cũng rất muốn có em ở nhà.

Chúng tôi đón Helen về nhà. Hàng ngày tôi đẩy xe đưa cô ấy đi dạo trong công viên, nơi trước đây cô ấy và các bạn hay đưa các con tôi ra chơi đùa lúc còn nhỏ. Những lúc có Addie hay Bertina tôi để cô ấy ngồi chơi với các bạn. Chiều tối, bọn trẻ cũng chỉ chơi quanh quẩn ở nhà, khi thì đọc sách cho cô ấy nghe, lúc lại kể chuyện ở trường của chúng. Mai Anh và bọn trẻ nhà An thường xuyên sang chơi và mang cho Helen món chè đỗ xanh mà cô ấy thích. Khi bố mẹ Helen đến thăm, cô ấy hỏi thăm sức khỏe và căn dặn các cụ nhiều điều, như thể các cụ mới là người bệnh cần lo lắng và chăm sóc, khiến họ không chen được câu nào để an ủi cô ấy. Helen luôn cố gắng vui vẻ, không để chúng tôi có phút nào đau buồn vì cô ấy.

Trước khi Helen mất khoảng hai tuần, cô ấy gọi tôi vào phòng và dặn tôi :

  • Em biết anh không thạo những công việc xã hội hay giao tiếp với các cơ quan, chính quyền địa phương, nên em đã chuẩn bị kỹ mọi việc trong cuốn sổ này. Khi nào anh thấy em không còn thở nữa, anh hãy lấy quyển sổ này ra và làm theo những gì em ghi trong đó, anh đừng lo lắng gì vì bạn bè mình sẽ hỗ trợ cho anh. Việc học hành của các con, Addie và Bertina sẽ giúp anh dần dần từng việc một, cả sau này khi các con lớn, đi làm… anh vẫn có thể trao đổi với các cô ấy.
  • Em đừng lo lắng gì cho anh cả, hãy yên tâm chữa bệnh, rồi em sẽ khỏe lại được mà. – Tôi cố giữ bình tĩnh an ủi cô ấy và cũng để động viên chính mình – Em và anh vẫn còn thời gian để cùng nhau chăm sóc bọn trẻ.
  • Em không lo lắng gì đâu, em biết anh sẽ làm được tốt mọi việc, chỉ là em không muốn anh phải làm một mình thôi.

Cô ấy không nói thêm gì nữa, khuôn mặt gầy rộc, khiến nụ cười của cô ấy không còn tươi sáng, nhưng vẫn luôn đầy nghị lực. Mặc dù biết phải chấp nhận, nhưng tai tôi ù đặc, tôi sợ hãi khi nghĩ đến lúc Helen rời bỏ chúng tôi, nắm chặt tay cô ấy, tôi cố gắng để không bật khóc như một đứa trẻ. Rồi cô ấy nói ngay sang chuyện khác, hỏi tôi về thời tiết mấy ngày sắp tới và dự định của bọn trẻ đi tham quan với trường. Tôi lấy tờ báo ngày ra, điểm qua những tin chính, chỉ những tin tốt lành và các tin về văn hóa hay du lịch, những tin cô ấy quan tâm.

Những ngày cuối, Helen không ăn được nữa, cô ấy phải dùng moocphin để giảm bớt những cơn đau, nhưng vẫn không hề kêu rên. Khuôn mặt cô ấy gầy xọp, hai mắt trũng xuống, nhưng vẫn toát lên sự kiên cường và lạc quan. Mỗi lần nhìn cô ấy, tôi lại thấy xót xa, không thể tưởng tượng nổi Helen ngày mới gặp tôi to và cao như thế, giờ chỉ còn da bọc xương, yếu ớt, mỏng manh. Cô ấy vẫn hỏi chuyện bọn trẻ, hỏi xem chúng mới đọc cuốn sách nào hay có phim gì sắp chiếu không. Cô ấy vẫn nhớ tên từng đứa bạn thân của con và tính cách chúng nó, dặn các con phải biết quý trọng và chia sẻ với bạn bè. Cô ấy hiểu khi cô ấy không còn, bạn bè sẽ là chỗ dựa quan trọng cho lũ trẻ.

Buổi chiều thứ sáu, tôi quanh quẩn bên cô ấy như mọi ngày. Helen quá gầy nên nằm lọt thỏm trên chiếc giường rộng, cô ấy nhắm mắt muốn ngủ, khuôn mặt rất bình thản. Để cô ấy ngủ yên, tôi ra ngoài ban công hút thuốc, nhưng khi tôi quay lại, cô ấy đã ra đi mất rồi. Tôi đau khổ vì đã để cô ấy ra đi một mình. Nắm bàn tay vẫn còn ấm của Helen tôi lặng đi như người mất hồn, không thể làm gì được. Tôi không biết tôi đã ngồi như thế bao nhiêu lâu, cho đến khi vợ chồng An đến, sau khi con trai tôi gọi điện. Anh ấy nhắc :

  • Tôi rất buồn khi Helen ra đi, nhưng giờ là lúc anh phải cứng rắn lên để Helen có thể yên tâm ra đi. Cô ấy không muốn nhìn thấy anh đau buồn, suy sụp, bởi bây giờ anh là chỗ dựa tinh thần cho bọn trẻ.

Tôi hiểu, không thể chỉ nghĩ đến nỗi đau của riêng mình, các con tôi đã mất đi người mẹ, bố mẹ Helen mất đi người con, bạn bè mất đi một người bạn nhân hậu. Tôi hấp tấp lấy cuốn sổ trong tủ đầu giường mở ra xem. Helen đã ghi đầy đủ các việc tôi cần làm, từ việc khâm liệm, đến các thủ tục an táng, cùng số điện thoại của từng người có thể giúp tôi thực hiện các công việc đó. Cô ấy đã ghi rõ, cô ấy muốn được chôn cất thế nào, ai là người sẽ đứng ra làm lễ cho cô ấy… tôi chỉ cần gọi điện cho mọi người, vì cô ấy đã nhờ họ trước rồi. Đọc những dòng chữ dặn dò của Helen tôi không cầm được nước mắt. Cô ấy hiểu và biết tất cả những yếu điểm của tôi nên đã lo cho gia đình chu toàn cả khi còn sống và lúc đã nhắm mắt.

Sáng chủ nhật cuối thu, trời đã lạnh, nhưng quang đãng. Chúng tôi đưa tiễn Helen theo đúng những gì cô ấy sắp xếp. Đến lúc này tôi mới hiểu mình phụ thuộc vào vợ đến mức nào. Mặc dù bệnh của Helen đã báo cho chúng tôi biết chúng tôi sẽ mất cô ấy, nhưng sau đám tang, tôi như người mất hồn. Cảm giác trống trải, cô đơn, thậm trí cả sợ hãi đã khiến tôi hoàn toàn suy sụp.

Những ngày đầu An giúp tôi đưa đón bọn trẻ đi học, còn buổi tối Mai Anh qua nhà, mang cho bố con tôi thức ăn đã nấu sẵn. Mặc dù thông cảm với tình cảnh của tôi, nhưng An không ủng hộ sự mềm yếu quá mức mà tôi đã bộc lộ trong mấy ngày này, An nói với tôi:

  • Helen là người phụ nữ can đảm và rất chăm lo gia đình, nhất là bọn trẻ, chị ấy sẽ rất lo lắng nếu thấy anh suy sụp như thế này. Anh hãy nhìn bọn trẻ xem, chúng cũng rất đau khổ, rất cần người chia sẻ và sát cánh cùng chúng nó vượt qua nỗi đau để tiếp tục sống. Rồi còn bố mẹ Helen nữa chứ, anh quên mất mọi người rồi sao?

Những lời An nói đã giúp tôi nhìn lại trách nhiệm của mình. Tôi không thể ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân như thế, giờ tôi phải làm cả việc của Helen để cô ấy yên tâm ra đi, cô ấy đã dành tất cả thời gian của mình cho gia đình rồi, tôi không thể để cô ấy lo thêm nữa.

Tôi đưa bọn trẻ về quê ngoại chơi vài ngày và chính thời gian sống với gia đình Helen ở quê nhà đã giúp tôi sức mạnh quay lại cuộc sống. Mọi người kể chuyện về cô ấy khi còn bé, những việc cô ấy thích làm, kỷ niệm về chuyến đi hái nấm đầu tiên của cô ấy trong rừng cùng bố và mấy người họ hàng. Họ nhắc tới Helen với niềm tự hào và tình thương yêu, nhưng không hề đau buồn, như thể cô ấy chỉ đi xa, chứ không rời bỏ họ. Bố mẹ Helen đưa bọn trẻ đi chơi trong rừng, cùng chúng vắt sữa bò và làm váng sữa, chỉ cho chúng xem cách làm các loại phoma khác nhau… Helen vẫn bên cạnh chúng tôi, cùng chúng tôi tiếp tục sống.

Sự khác nhau giữa văn hóa Việt Nam và Đức không chỉ đối với người sống, mà cả đối với người chết. Nếu như mọi người trong gia đình Helen rất thanh thản khi nói chuyện về cô ấy, họ chỉ nhắc đến những niềm vui trong cuộc đời cô ấy, những hình ảnh đẹp nhất của cô ấy và chuyện về tương lai của bố con tôi, thì cuộc gặp gỡ giữa bố con tôi và gia đình ở quê hơn nửa năm sau khi Helen mất lại vô cùng nặng nề. Mọi người ôm bố con tôi khóc lóc sụt sùi, rồi kể lể họ thương tiếc cô ấy ra sao…Các con tôi không hiểu được điều gì đang xảy ra, hết nhìn người này lại ngó người khác với con mắt hoảng hốt. Ngày hôm sau, hàng xóm kéo đến đầy nhà, hương khói nghi ngút, không khí tang tóc bao chùm khiến tôi cảm thấy như vợ tôi chết lần nữa.

Tôi chỉ ở nhà có năm ngày, sau đó ba bố con tôi cùng nhau đi Campuchia chơi, rồi trở lại Saigon trước khi về nước. Tôi muốn các con tôi quay lại cuộc sống bình thường, tiếp tục bước đi lên phía trước với sự động viên khuyến khích của tôi và cả Helen nữa.

Chương Ĩ

Từ khi Helen mất, tôi đã thay cô ấy chăm sóc các con, tôi cố gắng tìm cơ hội để nói chuyện với chúng, hỏi chúng về bạn bè, sở thích… những điều mà từ trước tới giờ tôi rất ít khi làm. Tiếng Đức của tôi sau bao nhiêu năm vẫn chưa thực sự tốt, vì tôi không học hành cơ bản, chỉ giao tiếp hàng ngày, nên tôi thường phải nói vòng vo rất lâu mới diễn tả được một nội dung không có gì phức tạp, đó là rào cản lớn nhất giữa chúng tôi. Tôi cố gắng để hiểu những điều chúng chia sẻ và thể hiện những gì mình muốn nói, với sự kiên nhẫn của cả ba bố con. Tôi biết, cho dù trước đây tôi có ít thời gian cho bọn trẻ thì chúng nó vẫn luôn yêu quý và tôn trọng tôi, giờ có thêm sự hiểu biết và cảm thông tình cảm ấy càng thêm gắn bó. Nhưng sự gần gũi với tôi không giúp cho các con tôi hiểu biết nhiều hơn về Việt Nam, cả về văn hóa và phong tục tập quán.

Rồi bọn trẻ lớn dần, chúng tự đi xe đến trường, có rất nhiều bạn bè và đã có những chính kiến, tư duy khá độc lập. Chúng có nhiều mối quan hệ mới, bữa ăn gia đình không còn là điều bắt buộc mỗi tối được nữa, vì rất nhiều lý do buộc tôi phải chấp nhận. Những sở thích, mối quan tâm của thanh niên được hệ thống thông tin hiện đại chi phối đã khiến tôi không thể theo kịp bọn trẻ. Chúng không còn kiên nhẫn ngồi nghe tôi giải thích hay kể chuyện dài dòng về những thứ mà với chúng đã là quá khứ, còn tôi thì không hiểu được những bộ phim hay thiết bị điện tử nào đó, được nhắc đến trong câu chuyện giữa hai đứa con tôi. Những chuyến đi chơi ba bố con thưa dần và nhiều hôm tôi sang ăn tối với vợ chồng An cũng chỉ có ba người lớn.

Khi con trai tôi tốt nghiệp trung học, tôi lúng túng không biết nên khuyên con tiếp tục con đường học hành như thế nào, vì ở Đức vào đại học không phải là con đường duy nhất, nên tôi đã hỏi ý kiến Addie, bạn vợ tôi. Sau khi gợi ý một số lựa chọn, cô ấy khuyên tôi:

  • Đạt là một đứa trẻ nhanh nhẹn, thích giao tiếp, tôi nghĩ cháu nên theo ngành dịch vụ, có thể vào học các trường trung cấp dịch vụ lưu trú, khách sạn, sau này nếu muốn, nó vẫn có thể học tiếp đại học sau khi đã có kinh nghiệm thực tế vài năm. Tuy nhiên, bọn trẻ bây giờ rất độc lập, chúng sẽ tự quyết định con đường đi cho mình, anh hãy lắng nghe chúng và để chúng lựa chọn. Chỉ khi nào anh thấy chúng đi quá xa so với suy nghĩ của anh thì lúc đó mới nên góp ý.
  • Có một điều tôi muốn chia sẻ với anh, có thể khiến anh buồn, nhưng nếu yêu thương các con anh, anh nên làm vì chúng. Các con anh sẽ sống ở đây, bởi đây là đất nước của chúng, chúng mang trong mình dòng máu Đức, nói tiếng Đức, hiểu rõ văn hóa và tập quán của dân Đức…nhưng vì chúng mang họ tên Việt, nên chúng gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí còn chịu thiệt hơn các bạn khác. Anh vẫn biết, dù chính phủ Đức đã có nhiều chính sách để đem đến sự bình đẳng giữa các dân tộc sống trên đất Đức, nhưng vẫn luôn tồn tại sự bất bình đẳng vô hình. Để các con anh được hưởng tất cả các quyền lợi như một người Đức thật sự, chúng phải mang họ tên Đức.
  • Bao nhiêu năm sống trên đất khách quê người, tôi hoàn toàn hiểu những điều Addie nói – tôi đáp lại. – Tôi hiểu tôi phải làm theo lời khuyên của chị vì lợi ích của chính các con tôi, nhưng chấp nhận để các con tôi chuyển sang họ và tên Đức thật không phải dễ. Nhưng tôi sẽ nghiêm túc suy nghĩ về việc này.
  • Trước khi anh quyết định, tôi muốn anh nói chuyện cởi mở với các con và hỏi xem chúng thực sự muốn thế nào.

Ba bố con tôi đã nói chuyện với nhau vào buổi tối hôm sau, không phải ở nhà mà ở quán café, nơi lần đầu tiên tôi đặt chân vào quán nhờ có Helen. Tôi chợt nhận ra rằng, các con tôi đã trở thành người lớn thật sự rồi. Đạt đã cao hơn mét tám, mái tóc nâu sẫm lúc sinh ra, giờ có vẻ sáng màu hơn, được hất lên để lộ trán vuông vức trông khá tính cách. Còn Quyên thì từ bé đến giờ vẫn là hình ảnh sao chép của Helen, chỉ có cái miệng rộng, mỗi khi cười để lộ hết hàm răng là giống tôi, nhưng sẽ không ai biết nó có người cha châu Á, khi nhìn thấy nó ngoài đường. Tôi kể lại chuyện lần đầu ngồi ngắm con phố này cách đây mười mấy năm, trước khi nói về chuyện tên, họ.

  • Bố chưa bao giờ tự hỏi các con cảm thấy thế nào khi mang họ, tên hoàn toàn Việt, cho đến khi cô Addie nói chuyện này với bố. – Tôi bắt đầu – Đúng là khi nghe cô ấy nói, bố mới giật mình. Bố cảm thấy mình có lỗi khi chưa thật sự tìm hiểu mọi điều xung quanh các con. Giờ vẫn chưa muộn, bố muốn làm điều gì đó tốt hơn cho các con, nếu có thể.
  • Rất nhiều thầy cô lúc đầu còn nghĩ rằng con nghịch ngợm, khi gọi đến tên người Việt, nhưng lại thấy một cô gái Đức đứng lên – Con gái tôi tâm sự – Phải mất một thời gian họ mới quen và xóa đi ấn tượng ban đầu. Tên con không thể phát âm được như tiếng Việt, nên một số bạn cũng hay lấy đó để trêu trọc con.
  • Con nhận thấy thái độ của một số thầy cô cũng hơi có sự phân biệt, khi biết tên con, có thể do con mặc cảm mà nghĩ vậy, nhưng đúng là nhiều lúc con cũng bị mất tự tin khi thầy cô gọi. – Con trai tôi nói.
  • Nếu bây giờ bố chuyển họ, tên các con theo mẹ, hoàn toàn Đức thì các con thấy thế nào? – Tôi hỏi chúng.
  • Con nghĩ con vẫn là con dù tên là Đạt hay là David, Quyên cũng vậy. Với gia đình mình, với ông bà nội, ngoại, chúng con vẫn là cháu của các ông bà, không có gì thay đổi. Nhưng với xã hội, họ tên Đức của chúng con sẽ giúp chúng con có được sự bình đẳng đáng phải có, như một công dân Đức bình thường.

Sau đó tôi đã nói chuyện với anh An, thì chính anh cũng tâm sự rằng bọn trẻ nhà anh vẫn thích dùng tên Đức khi chơi với bạn bè, vừa dễ gọi, vừa cảm thấy không xa cách. Tôi viết thư về cho bố mẹ tôi và gọi điện báo cho bố mẹ Helen về quyết định đổi họ tên cho các cháu. Tôi biết, bố mẹ tôi cũng sẽ đau lòng như tôi, nhưng mọi người đều hiểu, tất cả vì bọn trẻ và đó hoàn toàn chỉ là hình thức, bởi về bản chất hai đứa con tôi đã không còn là người Việt từ lâu rồi. Vì hoàn cảnh và cũng là lỗi của tôi, một người bố thiếu hiểu biết và quá ít trách nhiệm trong việc giáo dục con cái.

Tôi thực hiện tất cả các thủ tục pháp lý để đổi tên, họ của con mình sang họ của Helen. Giờ hai đứa con tôi hoàn toàn là người Đức, chúng nó đã có được quyền bình đẳng thực sự, đúng với những gì chúng xứng đáng nhận được.

Tôi yêu các con tôi và chúng cũng yêu tôi, tôi tin vậy. Giờ chúng đã lớn, ngoài việc đi học, chúng bắt đầu làm việc vài giờ một ngày để kiếm tiền và trải nghiệm cuộc sống. Chúng đi du lịch không cần người lớn, tham gia các hoạt động của thanh niên mà người lớn tuổi không thể làm được. Có thể những năm sau chúng sẽ không cùng tôi về Việt Nam nữa, để lẽo đẽo theo tôi đến chào họ hàng với nụ cười miễn cưỡng, hay chắp tay lạy trước bàn thờ tổ tiên cùng với lời khấn vái lầm rầm của bà mà chẳng hiểu tý gì…Nhưng tôi vẫn tin tưởng rằng, với dòng máu Việt trong người và tình yêu tôi dành cho các con mình, sẽ đến ngày chúng hiểu và sẽ tự tìm về quê hương…

You Might Also Like

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *